LỜI GIỚI THIỆU
Lịch sử là một khoa học kéo dài theo thời gian, người đọc dễ bị lôi cuốn và chìm trong biết bao sự kiện nối tiếp nhau, đan xen lớn, nhỏ vô cùng phong phú.
Cuốn “Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam” do Hà Văn Thư và Trần Hồng Đức biên soạn giúp cho người đọc biết được tiến trình dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam một cách xuyên suốt và ngắn gọn.
Ở đây, người đọc có thể nắm bắt được những sự kiện lịch sử quan trọng nhất, những anh hùng dân tộc và những nhân vật lịch sử có tác động lớn đến sự hình thành và phát triển của Tổ quốc Việt Nam.
“Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam” là một hình thức biên soạn lịch sử tốt, giúp người đọc tìm hiểu lịch sử một cách nhanh chóng, thuận tiện và dễ hiểu, dễ nhớ mà vẫn trung thực, khoa học.
Tôi xin trân trọng giới thiệu cuốn sách này cùng bạn đọc.
Giáo sư, Nhà giáo nhân dân
Thượng tướng HOÀNG MINH THẢO
VIỆT NAM
ĐẤT NƯỚC VÀ CON NGƯỜI
Nước Việt Nam ta ở về phía Đông Nam châu Á, hẹp bề ngang, dài bề dọc, hình cong như chữ S, trên phía Bắc và dưới phía Nam phình rộng ra, khúc giữa miền Trung eo hẹp lại. Đông và Nam giáp biển Đông (Thái Bình Dương), Bắc giáp Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Tây giáp Cộng hoà nhân dân Lào, và Vương quốc Cam-pu-chia, có diện tích 329.600km2 trên đất liền; và 700.000km2 thềm lục địa kể cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, dân số buổi đầu dựng nước chừng 50 vạn người. Đầu thời Lý - Trần, chừng hơn 5 triệu và đến nay (2007) là 84 triệu dân.
Việt Nam nằm ở khu vực nối liền hai đại dương: Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, vùng hải đảo và lục địa châu Á nên cũng là nơi tụ cư của nhiều dân tộc người khác nhau. Trên bước đường phát triển của loài người, Việt Nam là nước nằm giữa hai trung tâm văn minh lớn (Trung Hoa - Ấn Độ) cổ xưa nên cũng sớm trở thành điểm giao lưu của những nền văn minh đó. Theo các nhà dân tộc học, trên lãnh thổ Việt Nam có 54 tộc người sinh sống. Mặc dầu mỗi tộc người đều có những nét văn hoá riêng nhưng vẫn gắn bó chặt chẽ với nhau trong vận mệnh chung, thành quả của một cuộc đấu tranh, hoà hợp lâu dài trong lịch sử lấy tộc người Việt - chiếm trên 80% dân số - làm trung tâm.
Các dân tộc học chia dân tộc Việt Nam thành 8 nhóm theo ngôn ngữ như sau:
1. Việt - Mường (gồm Việt, Mường, Chứt,…)
2. Tày - Thái (gồm Tày, Nùng, Thái, Bố y, Cao Lan, Sán Chỉ, Lào,…)
3. H’mông - Dao (gồm H’mông, Dao, Pàthẻn,…)
4. Tạng - Miến (gồm Hà Nhì, Lôlô, Xá,…)
5. Hán (gồm Hoa, Sán dìu,…)
6. Môn - Khơme (gồm Khơmú, Kháng, Xinh mun, Hơrê, Xơđăng, Bana, Cơho, Mạ, Rơmăm, Khơme,…)
7. Mã Lai – Đa Đảo (gồm Chăm, Giơrai, Êđê, Raglai,…)
8. Hỗn hợp Nam Á (gồm Lachí, Laha, Pupéo,…)
Sau Cách mạng tháng Tám 1945 với sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà - vốn là thành quả đấu tranh chung của cả dân tộc - tất cả các tộc người, đều tự do và bình đẳng, cùng nhau phấn đấu vươn lên, chung sức, đồng lòng xây dựng Tổ quốc Việt Nam.
I. TRUYỀN THUYẾT KINH DƯƠNG VƯƠNG
HỌ HỒNG BÀNG - LẠC LONG QUÂN – ÂU CƠ
(THỜI TIỀN SỬ)
Theo truyền thuyết thì thuỷ tổ dân tộc Việt Nam là Kinh Dương Vương (tên huý là Lộc Tục), hiện còn có mộ tại làng Á Lữ, Thuận Thành, Bắc Ninh.
Kinh Dương Vương làm vua vào khoảng năm Nhâm Tuất (năm 2879 trước công nguyên), Kinh Dương Vương lấy con gái Thần Long là vua hồ Động Đình sinh một con trai đặt tên là Sùng Lãm, sau nối ngôi vua cha, hiệu là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai là Âu Cơ sinh ra một bọc một trăm trứng, một trăm trứng nở ra một trăm người con trai là tổ tiên của các dân tộc Việt.
Một hôm nhà Vua bảo bà Âu Cơ: “Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, thuỷ hoả khắc nhau, chung hợp thật khó”. Bèn từ biệt, chia năm chục người con theo mẹ lên núi, năm chục người con theo cha về phía Nam miền biển, phong cho con trưởng làm Hùng Vương nối ngôi.
Hùng Vương lên ngôi Vua, đặt quốc hiệu là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu (Bạch Hạc, Phú Thọ), chia nước ra làm 15 bộ:
1. Văn Lang (Bạch Hạc, TP. Việt Trì, Phú Thọ)
2. Châu Diên (Sơn Tây)
3. Phúc Lộc (Sơn Tây)
4. Tân Hưng (Hưng Hoá - Tuyên Quang)
5. Vũ Định (Thái Nguyên - Cao Bằng)
6. Vũ Ninh (Bắc Ninh)
7. Lục Hải (Lạng Sơn)
8. Ninh Hải (Quảng Ninh)
9. Dương Tuyền (Hải Dương)
10. Giao Chỉ (Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình)
11. Cửu Chân (Thanh Hoá)
12. Hoài Hoan (Nghệ An)
13. Cửu Đức (Hà Tĩnh)
14. Việt Thường (Quảng Bình - Quảng Trị)
15. Bình Văn
Các đời vua sau đều gọi Hùng Vương, có 18 đời vua Hùng Vương. Đặt các tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng võ gọi là Lạc Tướng, con trai Vua gọi là Quan Lang, con gái Vua gọi là Mỵ Nương, các quan nhỏ gọi là Bồ Chính.
Nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng là nhà nước phôi phai đầu tiên của Việt Nam, còn rất đơn giản, mặc dù mới hình thành nhưng đã cố kết được lòng người. Từ tình cảm cộng đồng dẫn đến ý thức cộng đồng, thể hiện rõ tình đồng bào ruột thịt. Họ bước đầu hiểu được mối quan hệ giữa thiên nhiên và con người, thấy được sức mạnh của cộng đồng trong việc làm thuỷ lợi, trao đổi sản phẩm và đấu tranh giữ gìn bản làng, đất nước.
Thời đại Hùng Vương có hai truyền thuyết được lưu truyền mãi trong dân gian thể hiện rõ tinh thần đoàn kết của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
1. Phù Đổng Thiên Vương
Đời Hùng Vương thứ 6 giặc Ân rất hùng mạnh, đã thôn tính nhiều nước xung quanh, chúng kéo quân xâm lược nước ta. Thế giặc rất mạnh, quan quân không sao chống cự nổi. Nhà Vua cho sứ giả đi rao tìm người tài giỏi ra giúp nước.
Lúc bấy giờ ở làng Phù Đổng, bộ Vũ Ninh có một nhà giàu đã 62 tuổi mới sinh được một cậu con trai lên ba mà vẫn chưa biết nói. Cậu bé suốt ba năm chỉ nằm ngửa không tự ngồi hay đứng được.
Khi sứ giả đến làng rao cầu hiền, cậu bé thốt nhiên nói được xin với cha cho mời sứ giả vào hỏi chuyện. Khi sứ giả đến, cậu bé xin sứ giả về tâu vua đúc cho cậu một con ngựa sắt, một thanh kiếm, một cái nón sắt rồi cậu sẽ ra quân diệt giặc.
Từ khi sứ giả nhà vua về, cậu bé mỗi ngày một lớn, ăn khoẻ lạ thường. Ngày tháng qua cậu lớn phổng lên thành người khổng lồ.
Khi giặc Ân kéo đến chân núi Châu Sơn (Tiên Du, Bắc Ninh) thì sứ giả đem kiếm, ngựa dâng cho cậu. Cậu vươn vai đứng lên rồi nhảy lên ngựa, ngựa chạy đến đâu, miệng phun ra lửa đến đó, cậu xông vào đội ngũ giặc. Sải kiếm chém giặc như chém chuối, kiếm gãy, cậu nhổ cả cụm tre mà đánh giặc. Không đương nổi sức mạnh thần thông của chàng trai làng Phù Đổng, quân giặc còn lại quỳ gối xin hàng.
Phá xong giặc Ân, người anh hùng làng Phù Đổng đi đến núi Sóc Sơn thì biến mất cả người lẫn ngựa. Vua nhớ ơn, truyền lập đền thờ ở làng Phù Đổng và sắc phong là Phù Đổng Thiên Vương.
Năm nào đến ngày mồng 09 tháng 4 làng Phù Đổng (còn gọi là làng Gióng) đều mở hội diễn lại sự tích đánh giặc Ân xưa, tục gọi là hội Gióng.
2. Sơn Tinh - Thuỷ Tinh
Hùng Vương thứ 18 kén chồng cho con gái là Mỵ Nương.
Sơn Tinh (thần núi) và Thuỷ Tinh (thần nước) đều đến cầu hôn. Hùng Vương hứa gả con gái cho người nào ngày mai mang lễ vật đến trước. Sơn Tinh đem lễ vật đến sớm hơn và được đưa Mỵ Nương về núi Tản Viên (tức núi Ba Vì, tỉnh Sơn Tây).
Thuỷ Tinh đến sau nổi giận dâng nước sông lên đánh Sơn Tinh. Nước dâng lên đến đâu Sơn Tinh làm cho núi đồi cao lên đến đó. Cuối cùng Thuỷ Tinh thua trận phải rút nước. Hàng năm cuộc chiến lại diễn lại. Truyền thuyết này phản ánh các trận lụt do sông Hồng, sông Đà gây ra và việc đắp đê trị thuỷ của tổ tiên ta từ xa xưa.
II. NHÀ THỤC (257T – 208T) 50 NĂM,
QUỐC HIỆU ÂU LẠC, KINH ĐÔ PHONG KHÊ
(CỔ LOA, ĐÔNG ANH, HÀ NỘI)
Thục Phán thủ lĩnh của người Âu Việt (phía Bắc nước Văn Lang) hợp nhất với nước Văn Lang của nước Lạc Việt, xưng là An Dương Vương, đặt quốc hiệu là nước Âu Lạc, đóng đô tại Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội).
Năm 218 TCN, Tần Thuỷ Hoàng huy động 50 vạn quân, chia làm 5 đạo, đi chinh phục Bách Việt, chỉ huy đạo quân Tần là danh tướng lừng danh Đồ Thư. Các Lạc Tướng đã suy tôn Thục Phán là lãnh tụ chung để chỉ huy cuộc kháng chiến chống quân Tần. Người Việt tiến hành chiến tranh du kích, thực hiện vườn không nhà trống, bền bỉ kháng chiến suốt gần 10 năm. Đợi khi quân Tần lâm vào tình trạng mệt mỏi, chán nản và khổ sở vì thiếu lương thực, ốm đau nhiều vì không hợp thuỷ thổ, Thục Phán mới tổ chức phản công quân Tần. Đồ Thư bị bắn chết, mất tướng chỉ huy, quân Tần mở đường máu tháo chạy về nước.
Sau chiến công oanh liệt đánh thắng 50 vạn quân Tần, An Dương Vương tổ chức xây thành Cổ Loa. Thành có 9 vòng, chu vi vòng ngoài 8km, vòng giữa 6,5km, vòng trong cùng 1,6km.
Với vị trí thuận lợi, với cách bố trí thành có 9 lớp, xoáy trôn ốc, thành cao, hào sâu, có các ụ nhô cao vượt ra ngoài thành luỹ để có thể từ cao bắn xuống, với vũ khí nỏ thần và những mũi tên đồng lợi hại, sức mạnh quân sự tổng hợp của thành Cổ Loa làm cho quân thù khiếp sợ, thể hiện trí tuệ quân sự tuyệt vời của tổ tiên ta.
III. PHONG KIẾN TRUNG HOA THỐNG TRỊ
LẦN THỨ NHẤT (207T-39) – NHÀ TRIỆU (207T-111T) 97 NĂM,
QUỐC HIỆU NAM VIỆT, KINH ĐÔ PHIÊN NGUNG
(QUẢNG CHÂU - TRUNG QUỐC)
Triệu Đà, người Hán, huyện Châu Định, nhân lúc nhà Tần suy loạn giết Trưởng Lại của nhà Tần, chiếm giữ đất Lĩnh Nam, xưng đế đòi ngang với nhà Hán, hưởng nước truyền ngôi được 5 đời gần 100 năm.
Triệu Đà đánh mãi Âu Lạc không được, vì nước ta có thành Cổ Loa kiên cố, có nỏ thần tuyệt diệu.
Sau Triệu Đà dùng mưu hoà hoãn, rồi sai con là Trọng Thuỷ sang ở rể lấy Mỵ Châu, con gái An Dương Vương. Trọng Thuỷ lấy cắp bí mật của nỏ thần Kim Quy trốn về nước, rồi đưa quân sang xâm lược nước ta.
Triệu Đà cướp được nước ta, lập thành nước Nam Việt đóng đô ở Phiên Ngung (Nay là Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc) từ đó nước ta thuộc Triệu, mở đầu thời kỳ phong kiến Trung Hoa thống trị nước ta lần thứ nhất.
1. Triệu Vũ Đế (Triệu Đà) (207T-136T)
Triệu Đà sinh năm 256 TCN, lên ngôi vua năm 207 TCN đến năm 136 TCN thì mất, ở ngôi vua 71 năm, thọ 121 tuổi (theo Việt Nam Sử lược).
2. Triệu Văn Đế (Triệu Hồ) (136T-124T)
Triệu Hồ là con trai Trọng Thuỷ, cháu nội của Triệu Đà ở ngôi được 12 năm, thọ 52 tuổi.
3. Triệu Minh Vương (Triệu Anh Tề) (124T-112T)
Triệu Anh Tề ở ngôi được 12 năm.
4. Triệu Ai Vương (Triệu Hưng) (112T-112T)
Triệu hưng ở ngôi chưa được 1 năm.
5. Triệu Dương Vương (Triệu Kiến Đức) (112T-111T)
Triệu Kiến Đức ở ngôi được gần 1 năm.
Năm 113 TCN nội tình nhà Triệu rất rối ren, vua Hán sai An Quốc Thiếu Quý sang dụ Nam Việt về hàng, Thiếu Quý nguyên là tình nhân của Cù Thị (mẹ của Ai Vương) nên tư thông với nhau và dụ dỗ Ai Vương dâng nước Nam Việt cho nhà Hán. Tể tướng Lữ Gia đã cùng một số đại thần đem quân cấm binh vào giết chết sứ nhà Hán, Cù Thị và Ai Vương, tôn Kiến Đức là con trưởng của Minh Vương lên làm vua. Vũ Đế nhà Hán sai Phục Ba tướng quân Lộ Báo Đức và Dương Bộc đem 5 đạo quân sang xâm lược Nam Việt. Tể tướng Lữ Gia chống không nổi bèn đưa Dương Vương chạy trốn, quân Hán đuổi theo bắt được, vua tôi đều bị hại, nhà Hán chiếm được Nam Việt, đổi là Giao Chỉ bộ.
IV. THỜI KỲ ĐẤU TRANH CHỐNG PHONG KIẾN TRUNG HOA
THỐNG TRỊ LẦN THỨ NHẤT (207T-39) 246 NĂM
Nhà Hán chia Giao Chỉ bộ ra làm 9 quận:
1. Nam Hải (Quảng Đông)
2. Thương Ngô (Quảng Tây)
3. Uất Lâm (Quảng Tây)
4. Hợp Phố (Quảng Đông)
5. Giao Chỉ (Bắc Bộ)
6. Cửu Chân (Thanh Hoá)
7. Nhật Nam (Nghệ Tĩnh)
8. Châu Nhai (Đảo Hải Nam)
9. Đạm Nhĩ (Đảo Hải Nam)
Nhà Hán đặt mỗi quận một viên thái thú và viên thứ sử để giám sát các quận. Còn các lạc tướng, lạc hầu vẫn được giữ nguyên và được cha truyền con nối.
Sử cũ ca ngợi Tích Quang là Thái thú quận Giao Chỉ và Nhâm Diên là Thái thú quận Cửu Chân là những người có công khai hoá, lấy lễ nghĩa dạy dân.
Đầu năm giáp ngọ (34), vua Quang Vũ nhà Hán sai Tô Định sang làm thái thú quận Giao Chỉ. Tô Định tham tàn, hà khắc, nhân dân sống trong cảnh vô cùng thống khổ.
V. TRƯNG NỮ VƯƠNG (40-43) 3 NĂM,
KINH ĐÔ MÊ LINH
Thái thú Tô Định đã giết chết Thi Sách, con quan Lạc tướng Chu Diên là chồng của Trưng Trắc, con quan Lạc tướng Mê Linh. Trưng Trắc đã cùng em là Trưng Nhị nổi dậy đánh phá thành Luy Lâu, trị sở của nhà Hán. Tô Định phải bỏ chạy về nước, các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng, Hai Bà Trưng đã thu được 65 thành trì. Đất nước sạch bóng quân thù, cả nước suy tôn Trưng Trắc lên làm vua là Trưng Nữ Vương đóng đô ở Mê Linh.
Đô kỳ đóng cõi Mê Linh
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta
(Đại Nam quốc sử diễn ca)
Trưng Nữ Vương ra lệnh miễn thuế cho dân hai năm. Nhân dân ta vô cùng phấn khởi, ra sức xây dựng cuộc sống mới trong độc lập tự do.
Năm Tân Sửu (41), nhà Hán sai Mã Viện hiệu “Phục ba tướng quân” là viên tướng có nhiều kinh nghiệm chiến trận làm chủ tướng cùng với tên Lưu Long làm phó tướng và tên Lâu Thuyền tướng quân Đoàn Chí đem 20 vạn quân sang xâm lược nước ta.
Trưng Nữ Vương và các tướng lĩnh của Hai Bà Trưng đã đưa quân ra chống giặc từ biên giới, trước thế giặc rất hung hãn, quân ta đã anh dũng chiến đấu, các trận chiến ác liệt đã diễn ra ở Lãng Bạc, Đông Triều, Yên Phong, Hà Bắc. Hai Bà đã thu quân rút về giữ ở Cấm Khê (Thạch Thất - Quốc Oai), hàng vạn người Việt đã ngã xuống trong các trận chiến ác liệt để bảo vệ Tổ quốc thiêng liêng của mình.
Ngày 06 tháng 02 năm Quý Mão (43), sau khi đã phóng những mũi lao và bắn những mũi tên cuối cùng vào kẻ thù. Hai Bà Trưng đã gieo mình xuống dòng sông Hát Giang tuẫn tiết.
Cấm Khê đến lúc hiểm nghèo
Chị em thất thế cũng liều với sông.
Cả nước vô cùng thương tiếc, đã lập đền thờ ghi công đức của hai vị nữ anh hùng của dân tộc.
Nay ở Hát Môn (Sơn Tây) và làng Đồng Nhân (Hà Nội) có đền thờ Hai Bà Trưng. Mồng 06 tháng 2 hàng năm có lễ hội tưởng nhớ công lao của Hai Bà Trưng.
Chiếm được nước ta, kẻ thù sáp nhập vào Đông Hán. Mã Viện còn cho dựng cây đồng trụ ở chỗ phân địa giới và cho khắc sáu chữ: “Đồng trụ triết, Giao Chỉ diệt” (cây đồng trụ đổ, thì người Giao Chỉ mất nòi).
Nhân dân ta ai qua đó cũng ném một hòn đá vào, dần dần thành gò cao, đến nay không biết cột trụ ở đâu.
Phần đọc thêm
CÁC NỮ TƯỚNG THỜI HAI BÀ TRƯNG
Trong lịch sử Việt Nam đã xảy ra một sự kiện lịch sử thật đặc biệt (và chỉ xảy ra có một lần), đó là ngay thế kỷ đầu Công nguyên (39-40) dân tộc ta đã theo lời kêu gọi của hai người phụ nữ trẻ tuổi (Trưng Trắc, Trưng Nhị) và đã tôn nhiều phụ nữ lên nắm quyền lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang để giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước.
Có lẽ do khí thiêng sông núi, do truyền thống bất khuất và tinh thần thượng võ của dân tộc ta mới hun đúc và sản sinh ra hai vị nữ anh hùng kiệt xuất và hàng chục nữ tướng tài ba như vậy.
Hai Bà Trưng đã được sử sách đời đời ghi chép công ơn, còn hơn hai mươi nữ tướng của Hai Bà Trưng tài ba lỗi lạc tuy chưa được ghi trong chính sử, xong sự tích kỳ tài của các nữ tướng anh hùng đã được tạc trên bia đá, ghi vào thần phả và được nhân dân ta đời đời truyền tụng.
Chúng tôi xin giới thiệu một số các vị nữ anh hùng đó để minh hoạ cho sự kiện lịch sử đặc biệt oanh liệt dưới thời Hai Bà Trưng.
1. Thanh Thiên nữ tướng anh hùng:
Khởi nghĩa ở Yên Dũng, Bắc Đái - Bắc Giang. Được Trưng Vương phong là Thánh Thiên công chúa. Hiện có đền thờ ở Ngọc Lâm, Yên Dũng, Bắc Giang.
2. Lê Chân - Nữ tướng miền biển:
Khởi nghĩa ở An Biên, Hải Phòng, được Trưng Vương phong là Nữ tướng quân miền biển. Hiện có đền Nghè, ở An Biên, Hải Phòng thờ.
3. Bát Nạn đại tướng:
Tên là Thục Nương, khởi nghĩa ở Tiên La (Thái Bình), được Trưng Vương phong là Bát Nạn Đại tướng, Trinh Thục công chúa. Hiện có đền thờ ở Phượng Lâu (Phù Ninh, Phú Thọ) và Tiên La (Quỳnh Phụ, Thái Bình).
4. Nàng Nội - Nữ tướng vùng Bạch Hạc:
Khởi nghĩa ở Bạch Hạc (Phú Thọ) được TrưngVương phong là Nhập Nội Bạch Hạc Thuỷ công chúa. Hiện thành phố Việt Trì có đền thờ.
5. Lê Thị Hoa - Nữ tướng anh hùng:
Khởi nghĩa ở Nga Sơn (Thanh Hoá) được Trưng Vương phong là Nữ tướng quân. Hiện ở Nga Sơn (Thanh Hoá ) có đền thờ.
6. Hồ Đề - Phó nguyên soái:
Khởi nghĩa ở Động Lão Mai (Thái Nguyên) được Trương Vương phong là Đề Nương công chúa chức Nhập nội trưởng quản quân nội các. Hiện có đền thờ ở Hương Nha, Tam Nông (Phú Thọ).
7.Xuân Nương - Trưởng quản quân cơ:
Khởi nghĩa ở Tam Nông (Phú Thọ), được Trưng Vương phong là Đông Cung công chúa chức Nhập nội trưởng quản quân cơ nội các. Hiện có đền thờ ở Hương Nha, Tam Nông (Phú Thọ).
8. Nàng Quỳnh, Nàng Quế - Tiên phong phó tướng:
Khởi nghĩa ở Châu Đại Man (Tuyên Quang), được Trưng Vương phong là Tiên phong phó tướng. Hiện ở Tuyên Quang còn miếu thờ hai vị nữ anh hung.
9. Đàm Ngọc Nga - Tiền đạo tả tướng:
Khởi nghĩa ở Thanh Thủy, Thanh Sơn - Phú Thọ. Được Trưng Vương phong là Điện Tế thế công chúa giữ chức Tiền đạo tả tướng quân.
10. Thiền Hoa - Tiên phong hữu tướng:
Khởi nghĩa ở Tam Thanh – Phú Thọ. Được Trưng Vương phong là Đông cung công chúa giữ chức Tiên phong hữu tướng. Hiện ở xã Hiền Quan, Tam Nông, Phú Thọ còn miếu thờ.
11. Quách A – Tiên phong tả tướng:
Khởi nghĩa ở Bạch Hạc, Phú Thọ. Được Trưng Vương phong là Khâu Ni công chúa giữ chức Tả tướng tiên phong. Hiện có đền thờ ở trang Nhật Chiêu (Phú Thọ).
12. Vĩnh Hoa – Nội thị tướng quân:
Khởi nghĩa ở Tiên Nha (Vĩnh Phúc). Được Trưng Vương phong là Vĩnh Hoa công chúa giữ chức Nội thị tướng quân. Đình Nghênh Tiên, xã Nguyệt Đức, huyện Yên Lạc, Vĩnh Phúc thờ Vĩnh Hoa.
13. Lê Ngọc Trinh – Đại tướng:
Khởi nghĩa ở Lũng Ngòi, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc. Được Trưng Vương phong là Ngọc Phượng công chúa giữ chức Đại tướng quân. Hiện có miếu thờ ở Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc.
14. Lê Thị Lan – Tướng quân:
Khởi nghĩa ở Đường Lâm – Sơn Tây. Được Trưng Vương phong là Nữ tướng quân. Hiện ở Hạ Hòa, Phú Thọ có miếu thờ.
15. Phật Nguyệt – Tả tướng thủy quân:
Khởi nghĩa ở Thanh Ba, Phú Thọ. Được Trưng Vương phong là Phật Nguyệt công chúa giữ chức Thao Giang Thượng Tả tướng thủy quân.
16. Phương Dung - nữ tướng:
Khởi nghĩa ở Lang Tài (Bắc Ninh). Được Trưng Vương phong là Phương Dung công chúa giữ chức nữ tướng quân.
17. Trần Nang - Trưởng Lĩnh trung quân:
Khởi nghĩa ở Thượng Hồng (Hải Dương). Được Trưng Vương phong là Hoàng công chúa giữ chức Trưởng lĩnh trung quân. Hiện ở Yên Lãng - Phú Thọ có đền thờ.
18. Nàng Quốc - Trung Dũng đại tướng quân:
Khởi nghĩa ở Gia Lâm - Hà Nội. Được Trưng Vương phong là Trung Dũng đại tướng quân. Hiện ở Hoàng Xá, Kiêu Kỵ, Gia Lâm thờ Nàng Quốc.
19. Tam Nương - Tả đạo tướng quân:
Ba chị em Đạm Nương, hồng Nương và Thanh Nương khởi nghĩa ở Quất Lưu, Bình Xuyên, Vĩnh Phúc. Trưng Vương phong Đạm Nương làm Tả đạo tướng quân. Hồng Nương và Thanh Nương làm Phó tướng. Đình Quất Lưu, Vĩnh Phúc thờ Tam Nương.
20. Quý Lan - Nội thị tướng quân:
Khởi nghĩa ở Lũng Động, Chí Linh (Hải Dương). Được Trưng Vương phong là An Bình công chúa giữ chức Nội thị tướng quân. Hiện ở Liễu Sơn, Lập Thạch, Vĩnh Phúc có đền thờ.
Nếu cứ để các nơi đơn độc chống đỡ với kẻ thù, không có sự liên kết với nhau, thì kẻ thù sẽ lần lượt tiêu diệt từng nơi, như bẻ từng chiếc đũa. Thấy rõ nguy cơ đó. Hai Bà Trưng đã truyền hịch cứu nước và cử người đi khắp nơi để tập hợp lực lượng dưới ngọn cờ chỉ huy thống nhất của Trưng Nữ Vương. Các nơi đã nhiệt liệt hưởng ứng, kéo quân hoặc cử đại biểu về Mê Linh tụ nghĩa.
Mùa xuân năm Canh Tý (3-40), Trưng Nữ Vương hội quân ở Hát Môn làm lễ tế cờ chính thức phát động nhân dân cả nước khởi nghĩa đuổi giặc Hán, lật đổ ách thống trị hơn hai trăm năm của ngoại tộc. Nhân dân cả nước nhất tề đứng dậy dưới cờ lệnh của Trưng Nữ Vương. Sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân ta được nhân lên gấp bội, khí thế ngút trời, như triều dâng thác đổ, làm cho kẻ thù không kịp chống đỡ, chỉ trong một thời gian ngắn 65 thành trì đã lần lượt về tay nghĩa quân, chỉ còn thành Luy Lâu, sào huyệt cuối cùng của Tô Định cũng bị phá vỡ trước sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân ta, đến nỗi Tô Định phải bỏ giáp, cắt râu, quẳng cả ấn tín tìm đường lẩn trốn về nước mới thoát chết.
VI. THỜI KỲ ĐẤU TRANH CHỐNG PHONG KIẾN
TRUNG HOA THỐNG TRỊ LẦN THỨ HAI (43-543): 500 NĂM,
BÀ TRIỆU KHỞI NGHĨA (248)
Nhà Đông Hán mất, nước Trung Hoa phân làm ba nước (thời Tam Quốc): Bắc Nguỵ, Tây Thục và Đông Ngô. Nước ta lúc đó thuộc Đông Ngô.
Bà Triệu Thị Trinh, sinh ngày 02 tháng 10 năm Bính Ngọ (226), anh là Triệu Quốc Đạt, một hào trưởng lớn ở miền Quan Yên, quận Cửu Chân (Nông Cống, Thanh Hoá). Bà Triệu là người chí khí, đã từng nói: "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp cơn sóng dữ, chém cá kình ở Biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp người ta".
Đông Ngô cai trị nước ta bằng một chính sách vô cùng tàn bạo, nhân dân ta vô cùng thống khổ, năm 248, Bà Triệu Thị Trinh cùng anh là Triệu Quốc Đạt phất cờ khởi nghĩa, tấn công quân Đông Ngô, phá tan các thành ấp của giặc.
Mỗi lần ra trận, Bà Triệu thường mặc áo giáp đồng, đi guốc ngà, cài trâm vàng, cưỡi voi dẫn đầu đoàn quân oai phong lẫm liệt. Quân Ngô kinh hồn bạt vía đã phải thốt lên:
Hoành qua đường hổ dị,
Đối diện Bà Vương nan
Nghĩa là:
Vung giáo chống hổ dễ,
Giáp mặt Vua Bà khó.
Trong vòng 6 tháng, nghĩa quân đã chiếm hầu hết đất Giao Châu. Vua Ngô hốt hoảng phái ngay Lục Dận (cháu Lục Tốn thời Tam Quốc) là một danh tướng có nhiều kinh nghiệm trong chiến trận và rất quỷ quyệt, hắn đưa hàng vạn quân tinh nhuệ sang đàn áp cuộc khởi nghĩa, chúng vừa đánh vừa đem của cải, chức tước ra dụ dỗ các thủ lĩnh người Việt, một số kẻ đã làm tay sai cho giặc Ngô. Bà Triệu vẫn kiên cường chiến đấu. Bà đã hy sinh trên núi Tùng (Hậu Lộc, Thanh Hoá), lúc đó Bà mới 23 tuổi.
Nhân dân ta vô cùng thương tiếc người nữ anh hùng, nay ở Phú Điền (Thanh Hoá) còn đền thờ Bà Triệu.
Thơ ca dân gian còn truyền tụng:
Tùng Sơn nắng quyện mây trời,
Dấu chân Bà Triệu rạng ngời sử xanh.
Nước ta lại thuộc Đông Ngô đô hộ (từ 226-265).
Năm 263, Lã Hưng, môt tướng của Đông Ngô, nổi dậy diệt Thái thú Giao Châu là Tôn Tư, giành quyền cai trị (từ 265-271). Lã Hưng đem Giao Châu theo về Tây Tấn.
Năm 271, Đông Ngô diệt được Lã Hưng giành lại quyền cai trị Giao Châu. Từ năm 280 Tây Tấn diệt hẳn Đông Ngô, đất Giao Châu lại thuộc về Tây Tấn.
Nhà Tấn diệt Nguỵ, Thục, Ngô, rồi phong cho anh em thân thích ra trấn trị các phương, nhưng các thân Vương cứ đánh giết lẫn nhau làm cho nhà Tấn ngày càng suy yếu. Nhân cơ hội đó các nước Triệu, Tần, Yên, Lương, Hạ, Hán nổi dậy chiếm lấy cả vùng phía Bắc sông Trường Giang. Nhà Tấn chỉ còn lại vùng Đông Nam, phải dời về Kiến Nghiệp (Nam Kinh), từ đó gọi là Đông Tấn.
Năm 420, Lư Du cướp ngôi nhà Đông Tấn, lập ra nhà Tống ở phía Nam; Trung Quốc lúc đó phân chia ra thành Nam, Bắc triều.
Nam Triều gồm: Nhà Tống, Tề, Lương, Trần kế nhau cai trị.
Bắc Triều gồm: Nhà Nguỵ, Tề, Chu nối nhau cai trị.
Nhân dân ta bị sự đô hộ vô cùng tàn bạo của nhà Lương do Thứ sử Tiêu Tư cai trị, nhân dân ta cực khổ trăm bề, đến năm 542 Lý Bôn lãnh đạo nhân dân ta khởi nghĩa, đánh đuổi Tiêu Tư, chiếm thành Long Biên lập nên Nhà nước độc lập đầu tiên của nước ta.
VII. NHÀ TIỀN LÝ VÀ NHÀ TRIỆU (544-602): 58 NĂM,
QUỐC HIỆU VẠN XUÂN, KINH ĐÔ LONG BIÊN
(THUẬN THÀNH - BẮC NINH)
1. Lý Nam Đế (Lý Bôn) (544-548):
Niên hiệu : Thiên Đức
Lý Bôn tức Lý Bí, quê ở Long Hưng (Thái Bình), sinh ngày 12 tháng 9 năm Quý Mùi (17-10-503), là con hào trưởng Lý Toản, mẹ là Lê Thị Oánh người Ái Châu (Thanh Hoá), 5 tuổi bố mất, 7 tuổi mẹ mất, phải ở với chú ruột.
Vị pháp tổ thiền sư thấy Lý Bí khôi ngô, tuấn tú xin làm con nuôi đưa về chùa Linh Bảo nuôi dạy, hơn mười năm đèn sách chuyên cần, lại được vị Thiền sư hết lòng dạy bảo, Lý Bí trở thành người học rộng, hiểu sâu, ít người sánh kịp. Nhờ có tài kiêm văn võ, Lý Bí được tôn làm thủ lĩnh địa phương.
Thấy nhân dân ta vô cùng thống khổ dưới sự đô hộ tàn ác của tên Thứ sử Tiêu Tư, tháng 1 năm 542, Lý Bí lãnh đạo nhân dân khởi binh tấn công quân Lương. Thứ sử Tiêu Tư khiếp sợ bỏ chạy về nước, chưa đầy 3 tháng Lý Bí đã chiếm được hầu hết các quận, huyện và thành Long Biên. Nhà Lương sai tướng đem quân sang phản công chiếm lại. Lý Bí đã cho quân mai phục đánh tan bọn xâm lược.
Đầu năm 543, vua Lương lại huy động binh mã sang xâm lược nước ta một lần nữa. Lý Bí chủ động đem quân đón đánh giặc ở bán đảo Hợp Phố, quân Lương bị tiêu diệt gần hết.
Cùng năm Quý Hợi (543) quân Lâm Ấp kéo sang cướp phá quận Nhật Nam, Lý Bí sai lão tướng Phạm Tu kéo quân vào đánh ở Cửu Đức (Hà Tĩnh), quân Lâm Ấp bỏ chạy về nước.
Tháng 2 năm Giáp Tý (544) Lý Bí xưng Lý Nam Đế, niên hiệu là Thiên Đức, đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên (Thuận Thành, Bắc Ninh).
Triều đình gồm có hai ban văn võ. Tướng Phạm Tu đứng đầu hàng quan võ. Tinh Thiều đứng đầu hàng quan văn. Triệu Túc được phong là Thái phó. Triệu Quang Phục trẻ tuổi có tài cũng được trọng dụng.
Triều tiền Lý khởi nghiệp từ đấy.
Lý Bí xưng là hoàng đế (Lý Nam Đế), đó là vị hoàng đế đầu tiên của nước ta. Ông đặt tên nước là Vạn Xuân, định niên hiệu Thiên Đức, lập một triều đình riêng là sự khẳng định chủ quyền độc lập dân tộc, bền vững muôn đời của dân tộc ta.
Lý Nam Đế còn cho đúc tiền đồng để tiêu dùng trong nước. Đây là tiền đồng đầu tiên của nước ta.
Lý Nam Đế sai dựng một ngôi chùa lớn ở phường Yên Hoa (Yên Phụ) lấy tên là chùa Khai Quốc. Chùa Khai Quốc nay là chùa Trấn Quốc trên đảo Cá Vàng (Kim Ngư) ở Hồ Tây , Hà Nội.
Đầu năm 545, nhà Lương cử Dương Phiêu làm Thứ sử Giao Châu cùng với tên tướng khát máu Trần Bá Tiên chia hai đường thuỷ bộ kéo sang xâm lược nước ta, hòng bóp chết Nhà nước Vạn Xuân non trẻ. Lý Nam Đế đem quân chặn đánh bọn xâm lược ở vùng sông Lục Đầu (Hải Dương), nhưng vì ít quân không cản được giặc, vua phải lui quân về giữ thành ở cửa sông Tô Lịch (Hà Nội). Quân địch hung hãn tấn công ác liệt, lão tướng Phạm Tu oanh liệt hy sinh. Lý Nam Đế phải rút quân vào miền núi Vĩnh Phúc và đóng thuỷ quân tại hồ Điển Triệt (Lập Thạch, Vĩnh Phúc).
Trần Bá Tiên là tên tướng giặc rất xảo quyệt, hắn lợi dụng một đêm mưa to gió lớn thúc quân vào đánh úp quân Lý Nam Đế. Nhà Vua phải rút quân về ẩn tại động Khuất Lão (Tam Nông, Vĩnh Phúc). Anh vua là Lý Thiên Bảo và Lý Phật Tử (người cùng họ) đem một cánh quân lui vào giữ Thanh Hoá.
Ở động Khuất Lão, Lý Nam Đế bị ốm nặng nên đã trao quyền cho Triệu Quang Phục tiếp tục cuộc kháng chiến chống quân Lương. Ngày 20 tháng 3 năm Mậu Thìn (13-4-548) Lý Nam Đế mất.
Để tưởng nhớ Lý Nam Đế, người anh hùng dân tộc mở đầu nền độc lập tự chủ của đất nước ta, nhân dân nhiều nơi lập đền thờ ghi nhớ công đức của Ông. Chỉ riêng miền Bắc đã có hơn 200 đền thờ Lý Nam Đế.
2. Lý Đào Lang (Lý Thiên Bảo) (549-555):
Lý Thiên Bảo là anh họ Lý Bôn. Sau khi Lý Nam Đế bị thất bại ở động Khuất Lão, Lý Thiên Bảo cùng Lý Phật Tử đem một cánh quân rút vào Thanh Hoá chống nhau với quân nhà Lương. Khi Lý Nam Đế mất, Thiên Bảo xưng là Đào Lang vương (549-555) đến năm Ất Hợi (555) Lý Thiên Bảo mất, không có con, binh quyền về tay Lý Phật Tử (người cùng họ).
3. Triệu Việt Vương (Triệu Quang Phục) (548-571):
Triệu Quang Phục là con Triệu Túc, Tù trưởng ở Chu Diên (Sơn Tây), được Lý Nam Đế trao quyền lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Lương. Ông đưa quân về Dạ Trạch (bãi Màn Trò, Hưng Yên) là một vùng đồng lầy rộng lớn, lau sậy um tùm, ở giữa có một bãi đất cao khô ráo để đóng quân. Ông cho quân lính vừa sản xuất lương thực, vừa tiếp tục cuộc kháng chiến lâu dài, đêm đêm nghĩa quân kéo ra đánh các đồn địch, làm cho lực lượng địch bị tiêu hao và mất ăn, mất ngủ.
Ngày 13-4-548, Triệu Quang Phục lên ngôi vua, xưng là Triệu Việt Vương, dân gian gọi ông là Dạ Trạch Vương.
Năm 550, từ căn cứ Dạ Trạch, Triệu Việt Vương tiến quân ra đánh giết được tướng giặc là Dương San, thu lại được thành Long Biên.
Trong khi đó ở Cửu Chân (Thanh Hoá), Lý Thiên Bảo và Lý Phật Tử bị quân Lương truy đuổi có lúc phải chạy sang Lào. Lý Thiên Bảo đóng quân ở động Dã Năng và xưng là Đào Lang vương, đến năm ất Hợi (555) Lý Thiên Bảo mất, binh quyền về tay Lý Phật Tử.
Năm Đinh Sửu (557) Lý Phật Tử đem quân về đánh Triệu Việt Vương để giành ngôi vua cho nhà Lý, nhưng đánh không thắng, Lý Phật Tử phải chia đất giảng hoà, để tỏ rõ tình hoà hiếu Triệu Việt Vương còn gả con gái là Cải Lương cho con trai Lý Phật Tử là Nhã Lang.
Năm Tân Mão (571) Lý Phật Tử bội ước, bất ngờ đem quân đánh úp, vì không phòng bị, Triệu Việt Vương thua chạy đến cửa biển Đại Nha, cùng đường phải nhảy xuống biển tuẫn tiết. Nhân dân vô cùng thương tiếc lập đền thờ tại đây.
Đời vua Trần Nhân Tông có sắc phong là "Minh Đạo Hoàng Đế". Trần Anh Tông ban thêm bốn chữ: "Thánh liệt Thần Vũ".
4. Hậu Lý Nam Đế (Lý Phật Tử) (571- 602):
Diệt xong Triệu Việt Vương, Lý Phật Tử xưng là Hậu Lý Nam Đế, đóng đô ở Phong Châu (Bạch Hạc, Phú Thọ).
Trong lúc Lý Phật Tử làm vua ở nước ta, thì bên Trung Hoa Tuỳ Văn Đế dẹp yên được Nam Bắc triều, thống nhất được đất nước Trung Hoa.
Năm Nhâm Tuất (602) nhà Tuỳ sai danh tướng Lưu Phương đem quân sang xâm lược nước ta. Lý Phật Tử sợ thế giặc đã đầu hàng, rồi bị bắt đem về Trung Hoa. Từ đó nước ta lại bị nhà Tuỳ đô hộ.
VIII. THỜI KỲ CHỐNG PHONG KIẾN TRUNG HOA
THỐNG TRỊ LẦN THỨ BA (603-939) 336 NĂM
Do Lý Phật Tử hèn nhát đầu hàng, nhà Tuỳ chia đất Giao Châu thành 3 quận:
- Giao Chỉ (các tỉnh Bắc Bộ)
- Cửu Chân (Thanh Hoá)
- Nhật Nam (Nghệ An)
Trị sở quận Giao Chỉ đóng ở Tống Bình (Hà Nội).
Nhà Tuỳ ở ngôi được 37 năm (581 - 618) thì mất. Lý Uyên lên ngôi Đường Cao Tổ trị vì Trung Hoa. Năm 671, nhà Đường chia đất Giao Châu thành 12 châu, 59 huyện và gọi nước ta là An Nam đô hộ phủ.
Nhà Đường dùng chính sách tàn bạo, hà khắc để cai trị nhân dân ta, chúng muốn đồng hoá nhân dân ta bằng chính sách "sát phu, hiếp phụ", nhưng với ý chí quật cường của một dân tộc anh hùng, nhân dân ta đã có nhiều cuộc nổi dậy chống lại kẻ thù xâm lược như các cuộc khởi nghĩa của Lý Tự Tiên, Đinh Kiến (687), Mai Thúc Loan (722), Phùng Hưng (766-791), Dương Thanh (819-820)... Tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa:
1. Mai Hắc Đế (Mai Thúc Loan ) (722):
Mai Thúc Loan quê ở Mai Phụ (huyện Thiên Lộc, nay thuộc Can Lộc, Hà Tĩnh) mồ côi cha, theo mẹ lên ở vùng Ngọc Trừng (Nam Đàn). Mai Thúc Loan nhà nghèo phải đi kiếm củi rồi đi ở đợ cho nhà giàu, chăn trâu, cày ruộng. Ông rất khoẻ và sáng dạ, người đen trũi, nổi tiếng giỏi vật cả một vùng. Cũng như mọi người dân Việt, Mai Thúc Loan phải đi phu quanh năm phục dịch vất vả cho bọn đô hộ nhà Đường.
Năm 722, Mai Thúc Loan kêu gọi những người dân phu cùng ông đi gánh vải quả nộp cống cho nhà Đường (Dương Quý Phi rất thích vải quả của đất Giao Châu) nổi dậy khởi nghĩa, nhân tài khắp các châu Hoan, Diễn, Ái theo về tụ hội dưới cờ nghĩa và suy tôn Mai Thúc Loan là Mai Hắc Đế, đóng đô ở thành Vạn An (Nghệ An).
Mai Hắc Đế tiến quân ra giải phóng phủ thành Tống Bình (Hà Nội), bọn đô hộ phải bỏ thành tháo chạy về nước.
Nhà Đường vội cử tên tướng tâm phúc là Dương Tư Húc đưa 10 vạn quân cùng Quang Sở Khách tiến sang đàn áp quân khởi nghĩa. Sau nhiều trận đánh ác liệt từ lưu vực sông Hồng, đến lưu vực sông Lam, cuối cùng Mai Hắc Đế thất trận, phải rút vào rừng sâu, Mai Hắc Đế bị ốm và mất ở trong rừng, con ông nối ngôi được một thời gian, tức là Mai Thiếu Đế. Quân xâm lược tiến vào đàn áp nhân dân ta rất dã man.
Nhân dân ta lập đền thờ Mai Hắc Đế ở trên núi Vệ Sơn trong thung lũng Hùng Sơn có đền thờ để đời đời nhớ ơn Người anh hùng dân tộc.
Hùng cứ Hoan Châu đất một vùng
Vạn An thành luỹ khói hương xông
Bốn phương Mai Đế lừng uy đức
Trăm trận Lý Đường phục võ công
…
…
Cống vải nhà Đường từ đây dứt
Dân nước đời đời hưởng phúc chung.
2. Bố Cái Đại Vương (Phùng Hưng) (791):
Phùng Hưng xuất thân là một hào trưởng đất Đường Lâm (Ba Vì, Hà Tây), bố là Phùng Hạp Khanh, một người hiền tài, đức độ, đã từng tham gia cuộc khởi nghĩa của Mai Hắc Đế. Phùng Hưng có sức khoẻ phi thường, ông đã từng giết hổ ở đất Đường Lâm để trừ tai hoạ cho dân, trước sự thống khổ của nhân dân ta dưới ách đô hộ của nhà Đường, Phùng Hưng đã cùng hai em là Phùng Hải và Phùng Dĩnh phất cờ khởi nghĩa chống lại nhà Đường.
Phùng Hưng chiếm đất Đường Lâm làm căn cứ, khi tiến công, khi thế thủ, cuộc chiến đấu kéo dài hơn 20 năm (766-791).
Năm Tân Mùi (791) Phùng Hưng cùng các tướng Phùng Hải, Phùng Dĩnh, Đỗ Anh Hàn, Bồ Phá Cần chia thành 5 đạo quân, bất ngờ cùng tiến đánh thành Tống Bình (Hà Nội). Cao Chính Bình đem 4 vạn quân ra nghênh chiến, sau 7 ngày đêm chiến đấu ác liệt, quân giặc phải rút vào thành cố thủ, nghĩa quân vây đánh khắp bốn mặt thành. Cao Chính Bình lo sợ đến phát ốm mà chết, Nghĩa quân chiếm được thành Tống Bình làm kinh đô xây dựng quyền tự chủ lâu dài. Phùng Hưng được nhân dân tôn hiệu là Bố Cái Đại Vương.
Giành được chủ quyền cho đất nước được mấy tháng thì Phùng Hưng mất. Phùng An nối nghiệp cha được mấy tháng thì bị Vua Đường cử Triệu Xương đem quân sang đánh bại.
Nhân dân ta lập đền thờ Phùng Hưng ở Đường Lâm để đời đời ghi nhớ công ơn Người anh hùng dân tộc.
IX. THỜI KỲ XÂY DỰNG NỀN TỰ CHỦ (905-938)
Sau khi đánh bại Phùng An, bọn quan lại nhà Đường sang cai trị Giao Châu càng tham tàn, độc ác nên nhân dân ta vô cùng uất hận. Chúng chỉ nghĩ đến việc vơ vét của cải cho nhiều nên hai lần bị giặc Nam Chiếu sang đánh, giết hại hơn 15 vạn dân Giao Châu, quan quân nhà Đường đều bỏ chạy.
Năm 905, nhà Đường suy yếu không cử được quan đô hộ nữa. Nhân cơ hội đó, Khúc Thừa Dụ đã nổi lên lập chính quyền độc lập, tự chủ.
1. Khúc Thừa Dụ (905-907):
Khúc Thừa Dụ quê ở Hồng Châu nay là Cúc Bồ (Ninh Giang, Hải Dương), vốn là một hào phú, tính khoan hoà, được nhân dân kính phục. Thấy nhân dân ta vô cùng thống khổ dưới ách đô hộ của nhà Đường, ông khởi binh tiến công thành Tống Bình (Hà Nội), đuổi giặc về nước tự xưng là Tiết độ sứ. Thế cùng, nhà Đường buộc phải công nhận Khúc Thừa Dụ là quan đứng đầu đất Việt.
Mặc dù Khúc Thừa Dụ và con cháu các ông không xưng đế, xưng vương, nhưng rõ ràng Khúc Thừa Dụ và họ Khúc đã có công đặt dấu chấm hết cho thời kỳ Bắc thuộc và xây dựng nền tảng đầu tiên cho kỷ nguyên độc lập, tự chủ của Tổ quốc ta.
Ngày 23-7-907, Khúc Thừa Dụ mất, giao quyền lại cho con là Khúc Hạo.
2. Khúc Hạo (907-917):
Năm 907, nhà Đường mất, nhà Hậu Lương thấy thế cũng phải công nhận Khúc Hạo là "An Nam đô hộ Tiết độ sứ".
Khúc Hạo chia nước ta thành 5 cấp hành chính: Lộ, phủ, châu, giáp, xã. Giáp, xã là cấp hành chính cơ sở lần đầu tiên được đặt ra ở nước ta. Cả nước lúc đó có 314 giáp.
Khúc Hạo còn sửa đổi chế độ điền tô và phú dịch đó là "bình quân thuế ruộng, tha bỏ lực dịch", lập sổ hộ khẩu, kê rõ họ tên, quê quán giao cho giáp trưởng trông coi. Chính sự cốt khoan dung giản dị. Nhân dân đều được yên vui.
Bằng những cải cách về hành chính và kinh tế của Khúc Hạo đã biểu thị rõ rệt tinh thần tự chủ, tự lập, tự cường và quyết tâm xây dựng một nước hoàn toàn độc lập của dân tộc ta.
Năm Đinh Sửu (917), Khúc Hạo mất, truyền ngôi cho con là Khúc Thừa Mỹ.
3. Khúc Thừa Mỹ (917-923):
Khúc Thừa Mỹ thay cha nhậm chức Tiết độ sứ của nhà Lương, chứ không phục nhà Nam Hán. Năm 923, vua Nam Hán sai tướng là Lý Khắc Chính đem quân sang đánh và bắt được Khúc Thừa Mỹ, rồi sai Lý Tiến sang cùng với Lý Khắc Chính là Thứ sử Giao Châu.
4. Dương Đình Nghệ (931-938):
Dương Đình Nghệ người làng Ràng (Dương Xá, Thiệu Hóa, Thanh Hoá), là tướng của họ Khúc đã khởi binh đánh đuổi Lý Khắc Chính và Lý Tiến giải phóng thành Đại La (Hà Nội) xưng là Tiết độ sứ vào năm 931.
Dương Đình Nghệ cử:
- Ngô Quyền quản lý Ái Châu.
- Đinh Công Chứ quản lý Hoan Châu.
Giành được quyền tự chủ 6 năm, Dương Đình Nghệ bị tên nha tướng là Kiều Công Tiễn ám hại để đoạt chức Tiết độ sứ. Nhân dân ta vô cùng căm phẫn nổi lên chống lại tên phản bội. Kiều Công Tiễn vội cho người sang cầu cứu chúa Nam Hán.
X. NHÀ NGÔ (939-965) 26 NĂM
KINH ĐÔ CỔ LOA (ĐÔNG ANH, HÀ NỘI)
1. Ngô Vương (Ngô Quyền) (939-944):
Ngô Quyền sinh ngày 12 tháng 3 năm Đinh Tỵ (897) ở Đường Lâm (Ba Vì, Hà Tây), cha là Ngô Mân, một hào trưởng có tài đức.
Ngô Quyền thông minh, khôi ngô, mắt sáng như chớp, văn võ toàn tài, được Dương Đình Nghệ tin yêu gả con gái là Dương Thị Ngọc và giao cho Ngô Quyền cai quản đất Ái Châu (Thanh Hóa).
Khi nghe tin bố vợ bị Kiều Công Tiễn giết hại, nhà Nam Hán lại cho con là Vạn Vương Hoằng Tháo đưa quân sang xâm lược nước ta, Ngô Quyền đã nhanh chóng tập hợp lực lượng, đem quân giết chết tên phản bội Kiều Công Tiễn và đón đánh quân Nam Hán.
Để đánh thắng quân xâm lược Nam Hán, ông cho bố trí một trận địa cọc nhọn bịt sắt cắm xuống lòng sông Bạch Đằng.
Tháng 10 năm Mậu Tuất (11-938) các chiến thuyền của giặc hùng hổ vượt biển tiến vào sông Bạch Đằng, quân ta nhử cho thuyền giặc vượt qua trận địa cọc, đợi cho nước thủy triều xuống, quân ta bắt đầu tấn công dữ dội, đánh vỗ mặt và hai bên sườn, làm cho thuyền giặc tháo chạy va vào cọc nhọn bịt sắt bị đắm gần hết. Hoằng Tháo bị đâm chết tại trận, quân ta giết và bắt sống hầu hết quân Nam Hán (đây là chiến thắng Bạch Đằng lần thứ nhất). Sau chiến thắng vang dội trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền lên ngôi Vua, đóng đô ở Cổ Loa (Đông Anh - Hà Nội), đặt ra các quan văn võ, đặt ra nghi lễ triều đình, thể hiện nền độc lập tự chủ của đất nước ta, thật sự chấm dứt hơn một nghìn năm Bắc thuộc, lập ra một quốc gia trường tồn vạn mùa xuân (nhà yêu nước Phan Bội Châu đã từng tôn vinh Ngô Quyền là "Vị tổ trung hưng thứ nhất" của dân tộc Việt Nam).
Ngô Quyền làm Vua được 5 năm (939-944) thì mất, thọ 48 tuổi. Trước khi mất Ngô Quyền đã ủy thác con trưởng là thái tử Ngô Xương Ngập cho em vợ là Dương Tam Kha.
2. Dương Bình Vương (Tam Kha) (945-950):
Dương Tam Kha là con của Dương Đình Nghệ (em vợ của Ngô Quyền) nhận di chiếu giúp thái tử Ngô Xương Ngập, nhưng đã cướp ngôi, tự lên ngôi vua xưng là Dương Bình Vương, Ngô Xương Ngập hoảng sợ chạy trốn về Nam Sách (Hải Dương). Dương Tam Kha nhận con thứ của Ngô Quyền là Ngô Xương Văn làm con nuôi. Hai con khác của Ngô Quyền là Ngô Nam Hưng và Ngô Càn Hưng còn bé thì giao cho bà Dương Thị Ngọc nuôi dưỡng.
Năm Canh Tuất (950), nhân có giặc Chu Thái ở Sơn Tây, Ngô Xương Văn xin đi dẹp loạn, Dương Tam Kha đồng ý cử thêm các tướng Dương Cát Lợi và Đỗ Cảnh Thạc cùng đem quân đi đánh. Khi đến Từ Liêm, Ngô Xương Văn đã bàn mưu với hai tướng đem quân trở lại Cổ Loa bắt Dương Tam Kha, Ngô Xương Văn nghĩ tình cậu cháu không lỡ giết chỉ giáng Dương Tam Kha xuống làm Trương Dương Công.
3. Hậu Ngô Vương (950-965):
a. Nam Tấn Vương (Ngô Xương Văn) (950-965):
Ngô Xương Văn là con thứ hai của Ngô Quyền và Dương Thị Ngọc, năm 950 đã dùng mưu lật đổ Dương Tam Kha giành lại ngôi vua cho nhà Ngô. Theo thỉnh cầu của các tướng lĩnh và triều thần, được sự chuẩn tấu của Dương Thái hậu, Ngô Xương Văn lên ngôi vua lấy niên hiệu là Nam Tấn Vương (950-965) đóng đô ở Cổ Loa.
Nam Tấn Vương cho người đi tìm anh là Thái tửu Ngô Xương Ngập, giả làm thầy đồ trốn ở Nam Sách (Hải Dương) lấy vợ và có con trai là Ngô Xương Xí đang sống ở đó, đón về kinh đô.
Theo thỉnh cầu của Ngô Xương Văn, được Dương Thái Hậu chuẩn tấu cả hai anh em đều làm Vua (như vậy nước ta lúc đó có hai vua).
b. Thiên Sách Vương (Ngô Xương Ngập) (951-959):
Ngô Xương Ngập lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Thiên Sách Vương (951-959) sau Ngô Xương Ngập bị bệnh thượng mã phong mà chết. Làm vua được 8 năm.
c. Loạn 12 sứ quân (966-968):
Từ khi Dương Tam Kha cướp ngôi nhà Ngô, các nơi không chịu thuần phục, giặc giã nổi lên như ong, mỗi thủ lĩnh cát cứ một vùng thường đem quân đánh chiếm lẫn nhau gây ra cảnh "nồi da nấu thịt" kéo dài gần 20 năm.
Năm 965, Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn bị bắn chết trong một trận giao chiến với giặc Chu Thái ở hương Thái Bình (Đường Lâm - Sơn Tây), con Thiên Sách Vương là Ngô Xương Xí nối nghiệp làm vua, thế lực ngày càng yếu kém phải lui về giữ đất Bình Kiều. Từ năm 966 hình thành cục diện 12 sứ quân như sau:
1. Ngô Xương Xí giữ Bình Kiều (Nông Cống, Thanh Hóa)
2. Đỗ Cảnh Thạc, giữ Đỗ Động Giang (Thanh Oai, Hà Tây).
3. Trần Lãm, giữ Bố Hải Khẩu (xã Trần Lãm, thị xã Thái Bình), tự xưng là Trần Minh Công.
4. Kiều Công Hãn, giữ Phong Châu (Bạch Hạc, Phú Thọ), tự xưng là Kiều Tam Chế.
5. Nguyễn Khoan, giữ Tam Đái (Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc), tự xưng là Nguyễn Thái Bình.
6. Ngô Nhật Khánh, giữ Đường Lâm (Phú Thọ, Hà Tây), tự xưng là Ngô Lãm Công.
7. Lý Khuê, giữ Siêu Loại (Thuận Thành, Bắc Ninh), tự xưng là Lý Lãng Công.
8. Nguyễn Thủ Tiệp, giữ Tiên Sơn (Bắc Ninh), tự xưng là Nguyễn Lệnh Công.
9. Lý Đường, giữ Tế Giang (Văn Giang, Hưng Yên), tự xưng là Lữ Tá Công.
10. Nguyễn Siêu, giữ Tây Phù Liệt (Thanh Trì, Hà Nội), tự xưng là Nguyễn Hữu Công
11. Kiều Thuận, giữ Hởi Hồ (Cẩm Khê, Phú Thọ), tự xưng là Kiều Lệnh Công.
12. Phạm Bạch Hổ, giữ Đằng Châu (Hưng Yên), xưng là Phạm Phòng Át.
Các sứ quân ấy cứ đem quân đánh lẫn nhau, nhằm bành trướng thế lực khiến cho nhân dân vô cùng khổ sở.
Đinh Bộ Lĩnh là con nuôi của thủ lĩnh Trần Lãm, sứ quân Bố Hải Khẩu. Trần Lãm chết, Đinh Bộ Lĩnh được trao quyền, đã dẹp xong "Loạn 12 sứ quân" quy giang sơn về một mối, lập nên cơ nghiệp nhà Đinh.
XI. NHÀ ĐINH (968-980) 12 NĂM,
QUỐC HIỆU ĐẠI CỒ VIỆT, KINH ĐÔ HOA LƯ
(HUYỆN GIA VIỄN, NINH BÌNH)
1.Đinh Tiên Hoàng (Đinh Bộ Lĩnh) (968-979):
Niên hiệu: Thái Bình (970-979)
Đinh Bộ Lĩnh người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng (Hoa Lư, Ninh Bình), con trai ông Đinh Công Trứ, một nha tướng của Dương Đình Nghệ, giữ chức thứ sử Châu Hoan, cha mất sớm, theo mẹ về quê ở, thường đi chăn trâu, bắt lũ trẻ khoanh tay làm kiệu để ngồi cho chúng rước và lấy bông lau làm cờ bày trận giả đánh nhau. Lớn lên, nhờ thông minh, có khí phách và có tài thao lược, thấy nhân dân khổ sở vì loạn 12 sứ quân, Ông dựng cờ nghĩa, mong lập nghiệp lớn. Đinh Bộ Lĩnh theo về dưới cờ của Trần Minh Công (Trần Lãm) ở Bố Hải Khẩu, được Trần Lãm nhận làm con nuôi. Khi Trần Lãm mất, Đinh Bộ Lĩnh thay quyền đem quân về giữ Hoa Lư, chiêu mộ hào kiệt để dẹp loạn 12 sứ quân.
Năm Mậu Thìn (968) sau khi dẹp xong loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế xưng là Đại Thắng Minh Hoàng Đế, đặt niên hiệu là Thái Bình, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư.
XII. NHÀ TIỀN LÊ (980-1009),
KINH ĐÔ HOA LƯ (29 NĂM)
THÀNH PHỐ NINH BÌNH NGÀY NAY
(Website: dulichhaiduong.vn kính tặng bạn đọc mạng chùm ảnh chụp ngày 27-6-2011)
1. Lê Đại Hành (Lê Hoàn) (980-1005):
Niên hiệu: -Thiên Phúc (980-988)
-Hưng Thống (989-993)
- Ứng Thiên (994-1005)
Lê Hoàn sinh năm 941 ở Xuân Lập, Thọ Xuân, Thanh Hoá, trong một gia đình nghèo khổ, bố là Lê Mịch, mẹ là Đặng Thị Sen. Cha mẹ mất sớm, Lê Hoàn phải đi làm con nuôi cho một vị quan nhỏ. Lớn lên, ông đi theo Nam Việt Vương Đinh Liễn đã lập được nhiều chiến công khi Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước, lập nên cơ nghiệp Nhà Đinh. Ông được Đinh Tiên Hoàng phong làm Thập Đạo tướng quân lúc vừa tròn 30 tuổi.
Khi cha con Đinh Tiên Hoàng bị Đỗ Thích giết hại, Đinh Toàn mới 6 tuổi lên ngôi vua. Nhân cơ hội đó, Nhà Tống cho quân sang xâm lược nước ta. Vì lợi ích của dân tộc, Thái hậu Dương Vân Nga đã trao ngôi vua cho Lê Hoàn.
Lê Hoàn xưng là Đại Hành Hoàng Đế đổi niên hiệu là Thiên Phúc, vẫn lấy tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư, phong Dương Vân Nga là Hoàng hậu.
Chỉ trong vòng một tháng, dưới sự chỉ huy tài giỏi tuyệt vời của Lê Đại Hành, quân và dân Đại Cồ Việt đã phá được quân Tống trên hai mặt trận thủy bộ.
- Cánh quân thủy do Lưu Trừng, Giả Thực và một số tướng khác chỉ huy tiến về phía sông Bạch Đằng. Theo kế của Ngô Quyền, trước đó Lê Hoàn đã cho một đạo quân nhỏ ra khiêu chiến, vờ thua để nhử giặc, quân Tống chủ quan, kiêu ngạo đã trúng kế của Lê Hoàn nên bị quân ta đánh tan tành, phải bỏ chạy, không dám vượt Bạch Đằng Giang để tiến sâu vào nội địa.
- Cánh quân bộ do Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng, Trần Khâm Tộ kéo vào Lạng Sơn theo đường sông Thương, khi vừa đến Chi Lăng chưa kịp đề phòng, đã bị Lê Hoàn cho quân trá hàng, rồi bất ngờ đánh úp, Hầu Nhân Bảo bị giết tại trận. Trần Khâm Tộ được tin hoảng hốt rút chạy. Lê Hoàn chỉ huy tướng sỹ truy kích quân giặc, quá nửa quân của Trần Khâm Tộ bị giết, các tướng giặc Quách Quân Biện, Triệu Phụng Hưng bị bắt đem về Hoa Lư. Tôn Toàn Hưng, Lưu Trừng, Giả Thực, Vương Soạn chạy thoát về nước nhưng đều bị vua Tống chém đầu hoặc tống ngục giam cầm đến chết.
Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược của quân dân Đại Cồ Việt do Lê Hoàn lãnh đạo đã giành được thắng lợi vẻ vang. Chiến thắng đó đã củng cố thêm nền độc lập thống nhất của Tổ quốc ta, góp phần tô thắm thêm truyền thống yêu nước, tự cường, bất khuất của dân tộc ta.
Sau khi chỉ huy quân dân cả nước đánh tan quân Tống sang xâm lược nước ta. Nhà vua lo xây dựng lực lượng bảo vệ Tổ quốc, mặt khác đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp để chấn hưng đất nước.
Về đối ngoại thì dùng chính sách ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo nhưng kiên quyết bảo vệ nền độc lập của đất nước.
Năm Ất Tỵ (1005) Lê Đại Hành mất, làm Vua được 25 năm, hưởng thọ 65 tuổi.
2. Lê Trung Tông (Lê Long Việt) (1005):
Vua Lê Đại Hành có 4 hoàng tử: Long Du, Ngân Trích, Long Việt và Long Đĩnh.
Lê Đại Hành đã cho con thứ ba là Long Việt làm Thái tử. Khi vua Lê Đại Hành băng hà, các hoàng tử tranh ngôi, đánh nhau 7 tháng, đến khi Long Việt lên ngôi làm vua là Lê Trung Tông được 3 ngày thì bị em cùng mẹ là Long Đĩnh giết chết lúc 23 tuổi (983 - 1005).
3. Lê Ngọa Triều (Lê Long Đĩnh) (1005 - 1009):
Niên hiệu: - Ứng Thiên (1006-1007)
- Cảnh Thụy (1008-1009)
Lê Long Đĩnh cướp ngôi của anh là Lê Trung Tông, lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Đại Thắng Minh Quang Hiếu Hoàng đế vẫn đóng đô ở Hoa Lư.
Lê Long Đĩnh đã làm việc càn dỡ giết Vua cướp ngôi, thích dâm đãng, tàn bạo, róc mía trên đầu nhà sư... Do chơi bời trác táng quá, nên khi ra thiết triều phải nằm, tục gọi là Lê Ngoạ Triều. Lê Ngoạ Triều làm vua được 4 năm (1005 - 1009) thì mất, thọ 24 tuổi. Long Đĩnh mất, con tên là Sạ còn bé. Dưới sự đạo diễn của quan Chi hậu nhân Đào Cam Mộc, triều thần đã tôn Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế.
Như vậy Nhà Tiền Lê trải qua 3 đời vua, tồn tại 29 năm.
XIII. NHÀ LÝ (1010-1225) 215 NĂM
QUỐC HIỆU ĐẠI CỒ VIỆT, KINH ĐÔ HOA LƯ.
NĂM 1010 DỜI ĐÔ VỀ THĂNG LONG,
TỪ NĂM 1054 ĐỔI QUỐC HIỆU LÀ ĐẠI VIỆT
1. Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) (1010 – 1028):
Niên hiệu: Thuận Thiên (1010-1028)
Lý Công Uẩn người hương Cổ Pháp (Từ Sơn, Bắc Ninh), mẹ họ Phạm, sinh ngày 12 tháng 02 năm Giáp Tuất (974), mẹ chết khi Ông còn nhỏ tuổi, thiền sư Lý Khánh Văn nhận làm con nuôi, Lý Công Uẩn thông minh và có chí khí khác người ngay từ nhỏ.
Nhờ sự nuôi dạy của nhà sư Lý Khánh Văn và Lý Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn trở thành người xuất chúng, văn võ kiêm toàn, làm đến chức Điện tiền chỉ huy sứ, khi Lê Ngọa Triều mất, triều thần tôn Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế vào đầu năm Canh Tuất (1010), đặt niên hiệu Thuận Thiên, vẫn lấy Quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư.
Tháng 7 năm 1010, vua Lý Thái Tổ cho dời đô về thành Đại La, một buổi sáng đẹp trời, thuyền vừa cập bến, Nhà Vua thấy Rồng vàng bay lên, do đó đặt tên là Kinh đô Thăng Long (tức là Hà Nội ngày nay).
Vua Thái Tổ chỉnh đốn lại việc cai trị, chia đất nước làm 24 lộ.
Ngày Mậu Tuất, tháng 3 năm Mậu Thìn (1028) Lý Thái Tổ mất, trị vì 18 năm, thọ 55 tuổi.
2. Lý Thái Tông (Lý Phật Mã) (1028 - 1054):
Niên hiệu: - Thiên Thành (1028-1033)
- Thống Thụy (1034-1038)
- Càn Phù Hữu Đạo (1039-1041)
- Minh Đạo (1042-1043)
- Sùng Hưng Đại Bảo (1044-1054)
Vua Lý Thái Tổ sinh các hoàng tử: Thái tử Phật Mã, Dực Thánh Vương, Khai Quốc Vương Bồ, Đông Chính Vương Lực, Võ Đức Vương Hoàng.
Khi Vua Thái Tổ vừa mất, chưa kịp làm lễ tang, các hoàng tử Võ Đức Vương, Dực Thánh Vương, Đông Chính Vương đem quân vây Hoàng thành để tranh ngôi vua với Thái tử, nhờ có Lê Phụng Hiểu trung dũng xông ra chém chết Võ Đức Vương, hai hoàng tử kia bỏ chạy.
Triều thần cùng Lê Phụng Hiểu phò Thái tử Phật Mã lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu là Thiên Thành.
Lý Thái Tông sinh ngày 26 tháng 6 năm Canh Tý (1000). Vua là người trầm mặc, có trí, biết trước mọi việc, đánh đâu được đấy, năm 1020 quân Chiêm Thành quấy rối nơi biên ải phía Nam, Lý Thái Tổ sai Thái tử Phật Mã làm Nguyên soái, đã đánh tan quân Chiêm Thành, bắt được tướng giặc đem về.
Khi làm vua, Người quan tâm mở mang bờ cõi, xây dựng lực lượng để bảo vệ đất nước, đoàn kết với các dân tộc ít người, thể hiện rõ bằng cách ngày 07 tháng 3 năm Kỷ Tỵ (1029), Vua gả công chúa Bình Dương cho Châu mục Châu Lạng là Thân Thiện Thái.
Dực Thánh Vương và Đông Chính Vương về kinh xin chịu tội nổi loạn. Lý Thái Tông nghĩ tình cốt nhục, bèn tha tội cho và phục lại chức cũ cho hai người. Cũng vì sự phản nghịch ấy cho nên vua Lý Thái Tông mới lập lệ: Cứ hàng năm các quan phải đến đền Đồng Cổ (ở làng Yên Thái - Hà Nội bây giờ) làm lễ đọc lời thề: "Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung, ai bất hiếu bất trung, xin quỷ thần làm tội", các quan ai trốn không đến, phải phạt 50 trượng.
Lý Thái Tông còn chú ý đến việc lập pháp. Năm Nhâm Ngọ (1042), nhà vua ban hành "Hình thư", đây là bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta.
Năm Giáp Ngọ (1054), Vua Lý Thái Tông mất, trị vì 26 năm, thọ 55 tuổi.
3. Lý Thánh Tông (Lý Nhật Tôn) (1054 - 1072):
Niên hiệu : - Long Thụy Thái Bình (1054-1058)
- Chương Thánh Gia Khánh (1059-1065)
- Long Chương Thiên Tự (1066-1067)
- Thiên Huống Bảo Tượng (1068-1069)
- Thần Võ (1069-1072)
Lý Thánh Tông tên húy là Nhật Tôn, sinh ngày 25 tháng 02 năm Quý Hợi (1023), là con bà Kim Thiên Thái Hậu họ Mai.
Lý Thái Tông lên ngôi vua ngày 01 tháng 10 năm Giáp Ngọ (1054), đặt niên hiệu là Long Thụy Thái Bình. Quốc hiệu là Đại Việt.
Mùa thu tháng Tám năm Canh Tuất (1070), Lý Thánh Tông cho mở trường lập văn Miếu tại kinh đô Thăng Long để thờ Khổng Tử và để các hoàng tử đến đấy học.
Nhà sử học Ngô Sỹ Liên ghi trong “Đại Việt sử ký toàn thư”: “... Vua khéo kế thừa, thực lòng thương dân, trọng việc làm ruộng, thương kẻ bị hình, vỗ về thu phục người xa, đặt khoa bác sĩ, hậu lễ dưỡng liêm, sửa sang việc văn, phòng bị việc võ, trong nước yên tĩnh, đáng gọi là bậc Vua tốt. Song nhọc sức xây tháp Báo Thiên, phí của dân làm cung Dâm Đàm, đó là chỗ kém”.
Lý Thánh Tông mất năm Nhâm Tý (1072) trị vì 18 năm, thọ 50 tuổi.
(Còn nữa)
webside http://dulichhaiduong.vn sưu tầm
Ý kiến bạn đọc