Triệu Đà, người Hán, huyện Châu Định, nhân lúc nhà Tần suy loạn giết Trưởng Lại của nhà Tần, chiếm giữ đất Lĩnh Nam, xưng đế đòi ngang với nhà Hán, hưởng nước truyền ngôi được 5 đời gần 100 năm.
Triệu Đà đánh mãi Âu Lạc không được, vì nước ta có thành Cổ Loa kiên cố, có nỏ thần tuyệt diệu.
Sau Triệu Đà dùng mưu hoà hoãn, rồi sai con là Trọng Thuỷ sang ở rể lấy Mỵ Châu, con gái An Dương Vương. Trọng Thuỷ lấy cắp bí mật của nỏ thần Kim Quy trốn về nước, rồi đưa quân sang xâm lược nước ta.
Triệu Đà cướp được nước ta, lập thành nước Nam Việt đóng đô ở Phiên Ngung (Nay là Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc) từ đó nước ta thuộc Triệu, mở đầu thời kỳ phong kiến Trung Hoa thống trị nước ta lần thứ nhất.
Triệu Đà sinh năm 256 TCN, lên ngôi vua năm 207 TCN đến năm 136 TCN thì mất, ở ngôi vua 71 năm, thọ 121 tuổi (theo Việt Nam Sử lược).
Triệu Hồ là con trai Trọng Thuỷ, cháu nội của Triệu Đà ở ngôi được 12 năm, thọ 52 tuổi.
Triệu Anh Tề ở ngôi được 12 năm.
Triệu hưng ở ngôi chưa được 1 năm.
Triệu Kiến Đức ở ngôi được gần 1 năm.
Năm 113 TCN nội tình nhà Triệu rất rối ren, vua Hán sai An Quốc Thiếu Quý sang dụ Nam Việt về hàng, Thiếu Quý nguyên là tình nhân của Cù Thị (mẹ của Ai Vương) nên tư thông với nhau và dụ dỗ Ai Vương dâng nước Nam Việt cho nhà Hán. Tể tướng Lữ Gia đã cùng một số đại thần đem quân cấm binh vào giết chết sứ nhà Hán, Cù Thị và Ai Vương, tôn Kiến Đức là con trưởng của Minh Vương lên làm vua. Vũ Đế nhà Hán sai Phục Ba tướng quân Lộ Báo Đức và Dương Bộc đem 5 đạo quân sang xâm lược Nam Việt. Tể tướng Lữ Gia chống không nổi bèn đưa Dương Vương chạy trốn, quân Hán đuổi theo bắt được, vua tôi đều bị hại, nhà Hán chiếm được Nam Việt, đổi là Giao Chỉ bộ.
Nhà Hán đặt mỗi quận một viên thái thú và viên thứ sử để giám sát các quận. Còn các lạc tướng, lạc hầu vẫn được giữ nguyên và được cha truyền con nối.
Sử cũ ca ngợi Tích Quang là Thái thú quận Giao Chỉ và Nhâm Diên là Thái thú quận Cửu Chân là những người có công khai hoá, lấy lễ nghĩa dạy dân.
Đầu năm giáp ngọ (34), vua Quang Vũ nhà Hán sai Tô Định sang làm thái thú quận Giao Chỉ. Tô Định tham tàn, hà khắc, nhân dân sống trong cảnh vô cùng thống khổ.
Thái thú Tô Định đã giết chết Thi Sách, con quan Lạc tướng Chu Diên là chồng của Trưng Trắc, con quan Lạc tướng Mê Linh. Trưng Trắc đã cùng em là Trưng Nhị nổi dậy đánh phá thành Luy Lâu, trị sở của nhà Hán. Tô Định phải bỏ chạy về nước, các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng, Hai Bà Trưng đã thu được 65 thành trì. Đất nước sạch bóng quân thù, cả nước suy tôn Trưng Trắc lên làm vua là Trưng Nữ Vương đóng đô ở Mê Linh.
Trưng Nữ Vương ra lệnh miễn thuế cho dân hai năm. Nhân dân ta vô cùng phấn khởi, ra sức xây dựng cuộc sống mới trong độc lập tự do.
Năm Tân Sửu (41), nhà Hán sai Mã Viện hiệu “Phục ba tướng quân” là viên tướng có nhiều kinh nghiệm chiến trận làm chủ tướng cùng với tên Lưu Long làm phó tướng và tên Lâu Thuyền tướng quân Đoàn Chí đem 20 vạn quân sang xâm lược nước ta.
Trưng Nữ Vương và các tướng lĩnh của Hai Bà Trưng đã đưa quân ra chống giặc từ biên giới, trước thế giặc rất hung hãn, quân ta đã anh dũng chiến đấu, các trận chiến ác liệt đã diễn ra ở Lãng Bạc, Đông Triều, Yên Phong, Hà Bắc. Hai Bà đã thu quân rút về giữ ở Cấm Khê (Thạch Thất - Quốc Oai), hàng vạn người Việt đã ngã xuống trong các trận chiến ác liệt để bảo vệ Tổ quốc thiêng liêng của mình.
Ngày 06 tháng 02 năm Quý Mão (43), sau khi đã phóng những mũi lao và bắn những mũi tên cuối cùng vào kẻ thù. Hai Bà Trưng đã gieo mình xuống dòng sông Hát Giang tuẫn tiết.
Cả nước vô cùng thương tiếc, đã lập đền thờ ghi công đức của hai vị nữ anh hùng của dân tộc.
Nay ở Hát Môn (Sơn Tây) và làng Đồng Nhân (Hà Nội) có đền thờ Hai Bà Trưng. Mồng 06 tháng 2 hàng năm có lễ hội tưởng nhớ công lao của Hai Bà Trưng.
Chiếm được nước ta, kẻ thù sáp nhập vào Đông Hán. Mã Viện còn cho dựng cây đồng trụ ở chỗ phân địa giới và cho khắc sáu chữ: “Đồng trụ triết, Giao Chỉ diệt” (cây đồng trụ đổ, thì người Giao Chỉ mất nòi).
Nhân dân ta ai qua đó cũng ném một hòn đá vào, dần dần thành gò cao, đến nay không biết cột trụ ở đâu.
Trong lịch sử Việt Nam đã xảy ra một sự kiện lịch sử thật đặc biệt (và chỉ xảy ra có một lần), đó là ngay thế kỷ đầu Công nguyên (39-40) dân tộc ta đã theo lời kêu gọi của hai người phụ nữ trẻ tuổi (Trưng Trắc, Trưng Nhị) và đã tôn nhiều phụ nữ lên nắm quyền lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang để giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước.
Có lẽ do khí thiêng sông núi, do truyền thống bất khuất và tinh thần thượng võ của dân tộc ta mới hun đúc và sản sinh ra hai vị nữ anh hùng kiệt xuất và hàng chục nữ tướng tài ba như vậy.
Hai Bà Trưng đã được sử sách đời đời ghi chép công ơn, còn hơn hai mươi nữ tướng của Hai Bà Trưng tài ba lỗi lạc tuy chưa được ghi trong chính sử, xong sự tích kỳ tài của các nữ tướng anh hùng đã được tạc trên bia đá, ghi vào thần phả và được nhân dân ta đời đời truyền tụng.
Chúng tôi xin giới thiệu một số các vị nữ anh hùng đó để minh hoạ cho sự kiện lịch sử đặc biệt oanh liệt dưới thời Hai Bà Trưng.
Khởi nghĩa ở Yên Dũng, Bắc Đái - Bắc Giang. Được Trưng Vương phong là Thánh Thiên công chúa. Hiện có đền thờ ở Ngọc Lâm, Yên Dũng, Bắc Giang.
Khởi nghĩa ở An Biên, Hải Phòng, được Trưng Vương phong là Nữ tướng quân miền biển. Hiện có đền Nghè, ở An Biên, Hải Phòng thờ.
Tên là Thục Nương, khởi nghĩa ở Tiên La (Thái Bình), được Trưng Vương phong là Bát Nạn Đại tướng, Trinh Thục công chúa. Hiện có đền thờ ở Phượng Lâu (Phù Ninh, Phú Thọ) và Tiên La (Quỳnh Phụ, Thái Bình).
Khởi nghĩa ở Bạch Hạc (Phú Thọ) được TrưngVương phong là Nhập Nội Bạch Hạc Thuỷ công chúa. Hiện thành phố Việt Trì có đền thờ.
Khởi nghĩa ở Nga Sơn (Thanh Hoá) được Trưng Vương phong là Nữ tướng quân. Hiện ở Nga Sơn (Thanh Hoá ) có đền thờ.
Khởi nghĩa ở Động Lão Mai (Thái Nguyên) được Trương Vương phong là Đề Nương công chúa chức Nhập nội trưởng quản quân nội các. Hiện có đền thờ ở Hương Nha, Tam Nông (Phú Thọ).
7.Xuân Nương - Trưởng quản quân cơ:
Khởi nghĩa ở Tam Nông (Phú Thọ), được Trưng Vương phong là Đông Cung công chúa chức Nhập nội trưởng quản quân cơ nội các. Hiện có đền thờ ở Hương Nha, Tam Nông (Phú Thọ).
Khởi nghĩa ở Châu Đại Man (Tuyên Quang), được Trưng Vương phong là Tiên phong phó tướng. Hiện ở Tuyên Quang còn miếu thờ hai vị nữ anh hung.
Khởi nghĩa ở Thanh Thủy, Thanh Sơn - Phú Thọ. Được Trưng Vương phong là Điện Tế thế công chúa giữ chức Tiền đạo tả tướng quân.
Khởi nghĩa ở Tam Thanh – Phú Thọ. Được Trưng Vương phong là Đông cung công chúa giữ chức Tiên phong hữu tướng. Hiện ở xã Hiền Quan, Tam Nông, Phú Thọ còn miếu thờ.
Khởi nghĩa ở Bạch Hạc, Phú Thọ. Được Trưng Vương phong là Khâu Ni công chúa giữ chức Tả tướng tiên phong. Hiện có đền thờ ở trang Nhật Chiêu (Phú Thọ).
Khởi nghĩa ở Tiên Nha (Vĩnh Phúc). Được Trưng Vương phong là Vĩnh Hoa công chúa giữ chức Nội thị tướng quân. Đình Nghênh Tiên, xã Nguyệt Đức, huyện Yên Lạc, Vĩnh Phúc thờ Vĩnh Hoa.
Khởi nghĩa ở Lũng Ngòi, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc. Được Trưng Vương phong là Ngọc Phượng công chúa giữ chức Đại tướng quân. Hiện có miếu thờ ở Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc.
Khởi nghĩa ở Đường Lâm – Sơn Tây. Được Trưng Vương phong là Nữ tướng quân. Hiện ở Hạ Hòa, Phú Thọ có miếu thờ.
Khởi nghĩa ở Thanh Ba, Phú Thọ. Được Trưng Vương phong là Phật Nguyệt công chúa giữ chức Thao Giang Thượng Tả tướng thủy quân.
Khởi nghĩa ở Lang Tài (Bắc Ninh). Được Trưng Vương phong là Phương Dung công chúa giữ chức nữ tướng quân.
Khởi nghĩa ở Thượng Hồng (Hải Dương). Được Trưng Vương phong là Hoàng công chúa giữ chức Trưởng lĩnh trung quân. Hiện ở Yên Lãng - Phú Thọ có đền thờ.
Khởi nghĩa ở Gia Lâm - Hà Nội. Được Trưng Vương phong là Trung Dũng đại tướng quân. Hiện ở Hoàng Xá, Kiêu Kỵ, Gia Lâm thờ Nàng Quốc.
Ba chị em Đạm Nương, hồng Nương và Thanh Nương khởi nghĩa ở Quất Lưu, Bình Xuyên, Vĩnh Phúc. Trưng Vương phong Đạm Nương làm Tả đạo tướng quân. Hồng Nương và Thanh Nương làm Phó tướng. Đình Quất Lưu, Vĩnh Phúc thờ Tam Nương.
Khởi nghĩa ở Lũng Động, Chí Linh (Hải Dương). Được Trưng Vương phong là An Bình công chúa giữ chức Nội thị tướng quân. Hiện ở Liễu Sơn, Lập Thạch, Vĩnh Phúc có đền thờ.
Nếu cứ để các nơi đơn độc chống đỡ với kẻ thù, không có sự liên kết với nhau, thì kẻ thù sẽ lần lượt tiêu diệt từng nơi, như bẻ từng chiếc đũa. Thấy rõ nguy cơ đó. Hai Bà Trưng đã truyền hịch cứu nước và cử người đi khắp nơi để tập hợp lực lượng dưới ngọn cờ chỉ huy thống nhất của Trưng Nữ Vương. Các nơi đã nhiệt liệt hưởng ứng, kéo quân hoặc cử đại biểu về Mê Linh tụ nghĩa.
Mùa xuân năm Canh Tý (3-40), Trưng Nữ Vương hội quân ở Hát Môn làm lễ tế cờ chính thức phát động nhân dân cả nước khởi nghĩa đuổi giặc Hán, lật đổ ách thống trị hơn hai trăm năm của ngoại tộc. Nhân dân cả nước nhất tề đứng dậy dưới cờ lệnh của Trưng Nữ Vương. Sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân ta được nhân lên gấp bội, khí thế ngút trời, như triều dâng thác đổ, làm cho kẻ thù không kịp chống đỡ, chỉ trong một thời gian ngắn 65 thành trì đã lần lượt về tay nghĩa quân, chỉ còn thành Luy Lâu, sào huyệt cuối cùng của Tô Định cũng bị phá vỡ trước sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân ta, đến nỗi Tô Định phải bỏ giáp, cắt râu, quẳng cả ấn tín tìm đường lẩn trốn về nước mới thoát chết.
Nhà Đông Hán mất, nước Trung Hoa phân làm ba nước (thời Tam Quốc): Bắc Nguỵ, Tây Thục và Đông Ngô. Nước ta lúc đó thuộc Đông Ngô.
Bà Triệu Thị Trinh, sinh ngày 02 tháng 10 năm Bính Ngọ (226), anh là Triệu Quốc Đạt, một hào trưởng lớn ở miền Quan Yên, quận Cửu Chân (Nông Cống, Thanh Hoá). Bà Triệu là người chí khí, đã từng nói: "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp cơn sóng dữ, chém cá kình ở Biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp người ta".
Đông Ngô cai trị nước ta bằng một chính sách vô cùng tàn bạo, nhân dân ta vô cùng thống khổ, năm 248, Bà Triệu Thị Trinh cùng anh là Triệu Quốc Đạt phất cờ khởi nghĩa, tấn công quân Đông Ngô, phá tan các thành ấp của giặc.
Mỗi lần ra trận, Bà Triệu thường mặc áo giáp đồng, đi guốc ngà, cài trâm vàng, cưỡi voi dẫn đầu đoàn quân oai phong lẫm liệt. Quân Ngô kinh hồn bạt vía đã phải thốt lên:
Trong vòng 6 tháng, nghĩa quân đã chiếm hầu hết đất Giao Châu. Vua Ngô hốt hoảng phái ngay Lục Dận (cháu Lục Tốn thời Tam Quốc) là một danh tướng có nhiều kinh nghiệm trong chiến trận và rất quỷ quyệt, hắn đưa hàng vạn quân tinh nhuệ sang đàn áp cuộc khởi nghĩa, chúng vừa đánh vừa đem của cải, chức tước ra dụ dỗ các thủ lĩnh người Việt, một số kẻ đã làm tay sai cho giặc Ngô. Bà Triệu vẫn kiên cường chiến đấu. Bà đã hy sinh trên núi Tùng (Hậu Lộc, Thanh Hoá), lúc đó Bà mới 23 tuổi.
Nhân dân ta vô cùng thương tiếc người nữ anh hùng, nay ở Phú Điền (Thanh Hoá) còn đền thờ Bà Triệu.
Nước ta lại thuộc Đông Ngô đô hộ (từ 226-265).
Năm 263, Lã Hưng, môt tướng của Đông Ngô, nổi dậy diệt Thái thú Giao Châu là Tôn Tư, giành quyền cai trị (từ 265-271). Lã Hưng đem Giao Châu theo về Tây Tấn.
Năm 271, Đông Ngô diệt được Lã Hưng giành lại quyền cai trị Giao Châu. Từ năm 280 Tây Tấn diệt hẳn Đông Ngô, đất Giao Châu lại thuộc về Tây Tấn.
Nhà Tấn diệt Nguỵ, Thục, Ngô, rồi phong cho anh em thân thích ra trấn trị các phương, nhưng các thân Vương cứ đánh giết lẫn nhau làm cho nhà Tấn ngày càng suy yếu. Nhân cơ hội đó các nước Triệu, Tần, Yên, Lương, Hạ, Hán nổi dậy chiếm lấy cả vùng phía Bắc sông Trường Giang. Nhà Tấn chỉ còn lại vùng Đông Nam, phải dời về Kiến Nghiệp (Nam Kinh), từ đó gọi là Đông Tấn.
Năm 420, Lư Du cướp ngôi nhà Đông Tấn, lập ra nhà Tống ở phía Nam; Trung Quốc lúc đó phân chia ra thành Nam, Bắc triều.
Nam Triều gồm: Nhà Tống, Tề, Lương, Trần kế nhau cai trị.
Bắc Triều gồm: Nhà Nguỵ, Tề, Chu nối nhau cai trị.
Nhân dân ta bị sự đô hộ vô cùng tàn bạo của nhà Lương do Thứ sử Tiêu Tư cai trị, nhân dân ta cực khổ trăm bề, đến năm 542 Lý Bôn lãnh đạo nhân dân ta khởi nghĩa, đánh đuổi Tiêu Tư, chiếm thành Long Biên lập nên Nhà nước độc lập đầu tiên của nước ta.
Lý Bôn tức Lý Bí, quê ở Long Hưng (Thái Bình), sinh ngày 12 tháng 9 năm Quý Mùi (17-10-503), là con hào trưởng Lý Toản, mẹ là Lê Thị Oánh người Ái Châu (Thanh Hoá), 5 tuổi bố mất, 7 tuổi mẹ mất, phải ở với chú ruột.
Vị pháp tổ thiền sư thấy Lý Bí khôi ngô, tuấn tú xin làm con nuôi đưa về chùa Linh Bảo nuôi dạy, hơn mười năm đèn sách chuyên cần, lại được vị Thiền sư hết lòng dạy bảo, Lý Bí trở thành người học rộng, hiểu sâu, ít người sánh kịp. Nhờ có tài kiêm văn võ, Lý Bí được tôn làm thủ lĩnh địa phương.
Thấy nhân dân ta vô cùng thống khổ dưới sự đô hộ tàn ác của tên Thứ sử Tiêu Tư, tháng 1 năm 542, Lý Bí lãnh đạo nhân dân khởi binh tấn công quân Lương. Thứ sử Tiêu Tư khiếp sợ bỏ chạy về nước, chưa đầy 3 tháng Lý Bí đã chiếm được hầu hết các quận, huyện và thành Long Biên. Nhà Lương sai tướng đem quân sang phản công chiếm lại. Lý Bí đã cho quân mai phục đánh tan bọn xâm lược.
Đầu năm 543, vua Lương lại huy động binh mã sang xâm lược nước ta một lần nữa. Lý Bí chủ động đem quân đón đánh giặc ở bán đảo Hợp Phố, quân Lương bị tiêu diệt gần hết.
Cùng năm Quý Hợi (543) quân Lâm Ấp kéo sang cướp phá quận Nhật Nam, Lý Bí sai lão tướng Phạm Tu kéo quân vào đánh ở Cửu Đức (Hà Tĩnh), quân Lâm Ấp bỏ chạy về nước.
Tháng 2 năm Giáp Tý (544) Lý Bí xưng Lý Nam Đế, niên hiệu là Thiên Đức, đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên (Thuận Thành, Bắc Ninh).
Triều đình gồm có hai ban văn võ. Tướng Phạm Tu đứng đầu hàng quan võ. Tinh Thiều đứng đầu hàng quan văn. Triệu Túc được phong là Thái phó. Triệu Quang Phục trẻ tuổi có tài cũng được trọng dụng.
Triều tiền Lý khởi nghiệp từ đấy.
Lý Bí xưng là hoàng đế (Lý Nam Đế), đó là vị hoàng đế đầu tiên của nước ta. Ông đặt tên nước là Vạn Xuân, định niên hiệu Thiên Đức, lập một triều đình riêng là sự khẳng định chủ quyền độc lập dân tộc, bền vững muôn đời của dân tộc ta.
Lý Nam Đế còn cho đúc tiền đồng để tiêu dùng trong nước. Đây là tiền đồng đầu tiên của nước ta.
Lý Nam Đế sai dựng một ngôi chùa lớn ở phường Yên Hoa (Yên Phụ) lấy tên là chùa Khai Quốc. Chùa Khai Quốc nay là chùa Trấn Quốc trên đảo Cá Vàng (Kim Ngư) ở Hồ Tây , Hà Nội.
Đầu năm 545, nhà Lương cử Dương Phiêu làm Thứ sử Giao Châu cùng với tên tướng khát máu Trần Bá Tiên chia hai đường thuỷ bộ kéo sang xâm lược nước ta, hòng bóp chết Nhà nước Vạn Xuân non trẻ. Lý Nam Đế đem quân chặn đánh bọn xâm lược ở vùng sông Lục Đầu (Hải Dương), nhưng vì ít quân không cản được giặc, vua phải lui quân về giữ thành ở cửa sông Tô Lịch (Hà Nội). Quân địch hung hãn tấn công ác liệt, lão tướng Phạm Tu oanh liệt hy sinh. Lý Nam Đế phải rút quân vào miền núi Vĩnh Phúc và đóng thuỷ quân tại hồ Điển Triệt (Lập Thạch, Vĩnh Phúc).
Trần Bá Tiên là tên tướng giặc rất xảo quyệt, hắn lợi dụng một đêm mưa to gió lớn thúc quân vào đánh úp quân Lý Nam Đế. Nhà Vua phải rút quân về ẩn tại động Khuất Lão (Tam Nông, Vĩnh Phúc). Anh vua là Lý Thiên Bảo và Lý Phật Tử (người cùng họ) đem một cánh quân lui vào giữ Thanh Hoá.
Ở động Khuất Lão, Lý Nam Đế bị ốm nặng nên đã trao quyền cho Triệu Quang Phục tiếp tục cuộc kháng chiến chống quân Lương. Ngày 20 tháng 3 năm Mậu Thìn (13-4-548) Lý Nam Đế mất.
Để tưởng nhớ Lý Nam Đế, người anh hùng dân tộc mở đầu nền độc lập tự chủ của đất nước ta, nhân dân nhiều nơi lập đền thờ ghi nhớ công đức của Ông. Chỉ riêng miền Bắc đã có hơn 200 đền thờ Lý Nam Đế.
Lý Thiên Bảo là anh họ Lý Bôn. Sau khi Lý Nam Đế bị thất bại ở động Khuất Lão, Lý Thiên Bảo cùng Lý Phật Tử đem một cánh quân rút vào Thanh Hoá chống nhau với quân nhà Lương. Khi Lý Nam Đế mất, Thiên Bảo xưng là Đào Lang vương (549-555) đến năm Ất Hợi (555) Lý Thiên Bảo mất, không có con, binh quyền về tay Lý Phật Tử (người cùng họ).
Triệu Quang Phục là con Triệu Túc, Tù trưởng ở Chu Diên (Sơn Tây), được Lý Nam Đế trao quyền lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Lương. Ông đưa quân về Dạ Trạch (bãi Màn Trò, Hưng Yên) là một vùng đồng lầy rộng lớn, lau sậy um tùm, ở giữa có một bãi đất cao khô ráo để đóng quân. Ông cho quân lính vừa sản xuất lương thực, vừa tiếp tục cuộc kháng chiến lâu dài, đêm đêm nghĩa quân kéo ra đánh các đồn địch, làm cho lực lượng địch bị tiêu hao và mất ăn, mất ngủ.
Ngày 13-4-548, Triệu Quang Phục lên ngôi vua, xưng là Triệu Việt Vương, dân gian gọi ông là Dạ Trạch Vương.
Năm 550, từ căn cứ Dạ Trạch, Triệu Việt Vương tiến quân ra đánh giết được tướng giặc là Dương San, thu lại được thành Long Biên.
Trong khi đó ở Cửu Chân (Thanh Hoá), Lý Thiên Bảo và Lý Phật Tử bị quân Lương truy đuổi có lúc phải chạy sang Lào. Lý Thiên Bảo đóng quân ở động Dã Năng và xưng là Đào Lang vương, đến năm ất Hợi (555) Lý Thiên Bảo mất, binh quyền về tay Lý Phật Tử.
Năm Đinh Sửu (557) Lý Phật Tử đem quân về đánh Triệu Việt Vương để giành ngôi vua cho nhà Lý, nhưng đánh không thắng, Lý Phật Tử phải chia đất giảng hoà, để tỏ rõ tình hoà hiếu Triệu Việt Vương còn gả con gái là Cải Lương cho con trai Lý Phật Tử là Nhã Lang.
Năm Tân Mão (571) Lý Phật Tử bội ước, bất ngờ đem quân đánh úp, vì không phòng bị, Triệu Việt Vương thua chạy đến cửa biển Đại Nha, cùng đường phải nhảy xuống biển tuẫn tiết. Nhân dân vô cùng thương tiếc lập đền thờ tại đây.
Đời vua Trần Nhân Tông có sắc phong là "Minh Đạo Hoàng Đế". Trần Anh Tông ban thêm bốn chữ: "Thánh liệt Thần Vũ".
Diệt xong Triệu Việt Vương, Lý Phật Tử xưng là Hậu Lý Nam Đế, đóng đô ở Phong Châu (Bạch Hạc, Phú Thọ).
Trong lúc Lý Phật Tử làm vua ở nước ta, thì bên Trung Hoa Tuỳ Văn Đế dẹp yên được Nam Bắc triều, thống nhất được đất nước Trung Hoa.
Năm Nhâm Tuất (602) nhà Tuỳ sai danh tướng Lưu Phương đem quân sang xâm lược nước ta. Lý Phật Tử sợ thế giặc đã đầu hàng, rồi bị bắt đem về Trung Hoa. Từ đó nước ta lại bị nhà Tuỳ đô hộ.
Do Lý Phật Tử hèn nhát đầu hàng, nhà Tuỳ chia đất Giao Châu thành 3 quận:
Trị sở quận Giao Chỉ đóng ở Tống Bình (Hà Nội).
Nhà Tuỳ ở ngôi được 37 năm (581 - 618) thì mất. Lý Uyên lên ngôi Đường Cao Tổ trị vì Trung Hoa. Năm 671, nhà Đường chia đất Giao Châu thành 12 châu, 59 huyện và gọi nước ta là An Nam đô hộ phủ.
Nhà Đường dùng chính sách tàn bạo, hà khắc để cai trị nhân dân ta, chúng muốn đồng hoá nhân dân ta bằng chính sách "sát phu, hiếp phụ", nhưng với ý chí quật cường của một dân tộc anh hùng, nhân dân ta đã có nhiều cuộc nổi dậy chống lại kẻ thù xâm lược như các cuộc khởi nghĩa của Lý Tự Tiên, Đinh Kiến (687), Mai Thúc Loan (722), Phùng Hưng (766-791), Dương Thanh (819-820)... Tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa:
Mai Thúc Loan quê ở Mai Phụ (huyện Thiên Lộc, nay thuộc Can Lộc, Hà Tĩnh) mồ côi cha, theo mẹ lên ở vùng Ngọc Trừng (Nam Đàn). Mai Thúc Loan nhà nghèo phải đi kiếm củi rồi đi ở đợ cho nhà giàu, chăn trâu, cày ruộng. Ông rất khoẻ và sáng dạ, người đen trũi, nổi tiếng giỏi vật cả một vùng. Cũng như mọi người dân Việt, Mai Thúc Loan phải đi phu quanh năm phục dịch vất vả cho bọn đô hộ nhà Đường.
Năm 722, Mai Thúc Loan kêu gọi những người dân phu cùng ông đi gánh vải quả nộp cống cho nhà Đường (Dương Quý Phi rất thích vải quả của đất Giao Châu) nổi dậy khởi nghĩa, nhân tài khắp các châu Hoan, Diễn, Ái theo về tụ hội dưới cờ nghĩa và suy tôn Mai Thúc Loan là Mai Hắc Đế, đóng đô ở thành Vạn An (Nghệ An).
Mai Hắc Đế tiến quân ra giải phóng phủ thành Tống Bình (Hà Nội), bọn đô hộ phải bỏ thành tháo chạy về nước.
Nhà Đường vội cử tên tướng tâm phúc là Dương Tư Húc đưa 10 vạn quân cùng Quang Sở Khách tiến sang đàn áp quân khởi nghĩa. Sau nhiều trận đánh ác liệt từ lưu vực sông Hồng, đến lưu vực sông Lam, cuối cùng Mai Hắc Đế thất trận, phải rút vào rừng sâu, Mai Hắc Đế bị ốm và mất ở trong rừng, con ông nối ngôi được một thời gian, tức là Mai Thiếu Đế. Quân xâm lược tiến vào đàn áp nhân dân ta rất dã man.
Nhân dân ta lập đền thờ Mai Hắc Đế ở trên núi Vệ Sơn trong thung lũng Hùng Sơn có đền thờ để đời đời nhớ ơn Người anh hùng dân tộc.
Phùng Hưng xuất thân là một hào trưởng đất Đường Lâm (Ba Vì, Hà Tây), bố là Phùng Hạp Khanh, một người hiền tài, đức độ, đã từng tham gia cuộc khởi nghĩa của Mai Hắc Đế. Phùng Hưng có sức khoẻ phi thường, ông đã từng giết hổ ở đất Đường Lâm để trừ tai hoạ cho dân, trước sự thống khổ của nhân dân ta dưới ách đô hộ của nhà Đường, Phùng Hưng đã cùng hai em là Phùng Hải và Phùng Dĩnh phất cờ khởi nghĩa chống lại nhà Đường.
Phùng Hưng chiếm đất Đường Lâm làm căn cứ, khi tiến công, khi thế thủ, cuộc chiến đấu kéo dài hơn 20 năm (766-791).
Năm Tân Mùi (791) Phùng Hưng cùng các tướng Phùng Hải, Phùng Dĩnh, Đỗ Anh Hàn, Bồ Phá Cần chia thành 5 đạo quân, bất ngờ cùng tiến đánh thành Tống Bình (Hà Nội). Cao Chính Bình đem 4 vạn quân ra nghênh chiến, sau 7 ngày đêm chiến đấu ác liệt, quân giặc phải rút vào thành cố thủ, nghĩa quân vây đánh khắp bốn mặt thành. Cao Chính Bình lo sợ đến phát ốm mà chết, Nghĩa quân chiếm được thành Tống Bình làm kinh đô xây dựng quyền tự chủ lâu dài. Phùng Hưng được nhân dân tôn hiệu là Bố Cái Đại Vương.
Giành được chủ quyền cho đất nước được mấy tháng thì Phùng Hưng mất. Phùng An nối nghiệp cha được mấy tháng thì bị Vua Đường cử Triệu Xương đem quân sang đánh bại.
Nhân dân ta lập đền thờ Phùng Hưng ở Đường Lâm để đời đời ghi nhớ công ơn Người anh hùng dân tộc.
Sau khi đánh bại Phùng An, bọn quan lại nhà Đường sang cai trị Giao Châu càng tham tàn, độc ác nên nhân dân ta vô cùng uất hận. Chúng chỉ nghĩ đến việc vơ vét của cải cho nhiều nên hai lần bị giặc Nam Chiếu sang đánh, giết hại hơn 15 vạn dân Giao Châu, quan quân nhà Đường đều bỏ chạy.
Năm 905, nhà Đường suy yếu không cử được quan đô hộ nữa. Nhân cơ hội đó, Khúc Thừa Dụ đã nổi lên lập chính quyền độc lập, tự chủ.
Khúc Thừa Dụ quê ở Hồng Châu nay là Cúc Bồ (Ninh Giang, Hải Dương), vốn là một hào phú, tính khoan hoà, được nhân dân kính phục. Thấy nhân dân ta vô cùng thống khổ dưới ách đô hộ của nhà Đường, ông khởi binh tiến công thành Tống Bình (Hà Nội), đuổi giặc về nước tự xưng là Tiết độ sứ. Thế cùng, nhà Đường buộc phải công nhận Khúc Thừa Dụ là quan đứng đầu đất Việt.
Mặc dù Khúc Thừa Dụ và con cháu các ông không xưng đế, xưng vương, nhưng rõ ràng Khúc Thừa Dụ và họ Khúc đã có công đặt dấu chấm hết cho thời kỳ Bắc thuộc và xây dựng nền tảng đầu tiên cho kỷ nguyên độc lập, tự chủ của Tổ quốc ta.
Ngày 23-7-907, Khúc Thừa Dụ mất, giao quyền lại cho con là Khúc Hạo.
Năm 907, nhà Đường mất, nhà Hậu Lương thấy thế cũng phải công nhận Khúc Hạo là "An Nam đô hộ Tiết độ sứ".
Khúc Hạo chia nước ta thành 5 cấp hành chính: Lộ, phủ, châu, giáp, xã. Giáp, xã là cấp hành chính cơ sở lần đầu tiên được đặt ra ở nước ta. Cả nước lúc đó có 314 giáp.
Khúc Hạo còn sửa đổi chế độ điền tô và phú dịch đó là "bình quân thuế ruộng, tha bỏ lực dịch", lập sổ hộ khẩu, kê rõ họ tên, quê quán giao cho giáp trưởng trông coi. Chính sự cốt khoan dung giản dị. Nhân dân đều được yên vui.
Bằng những cải cách về hành chính và kinh tế của Khúc Hạo đã biểu thị rõ rệt tinh thần tự chủ, tự lập, tự cường và quyết tâm xây dựng một nước hoàn toàn độc lập của dân tộc ta.
Năm Đinh Sửu (917), Khúc Hạo mất, truyền ngôi cho con là Khúc Thừa Mỹ.
Khúc Thừa Mỹ thay cha nhậm chức Tiết độ sứ của nhà Lương, chứ không phục nhà Nam Hán. Năm 923, vua Nam Hán sai tướng là Lý Khắc Chính đem quân sang đánh và bắt được Khúc Thừa Mỹ, rồi sai Lý Tiến sang cùng với Lý Khắc Chính là Thứ sử Giao Châu.
Dương Đình Nghệ người làng Ràng (Dương Xá, Thiệu Hóa, Thanh Hoá), là tướng của họ Khúc đã khởi binh đánh đuổi Lý Khắc Chính và Lý Tiến giải phóng thành Đại La (Hà Nội) xưng là Tiết độ sứ vào năm 931.
- Ngô Quyền quản lý Ái Châu.
- Đinh Công Chứ quản lý Hoan Châu.
Giành được quyền tự chủ 6 năm, Dương Đình Nghệ bị tên nha tướng là Kiều Công Tiễn ám hại để đoạt chức Tiết độ sứ. Nhân dân ta vô cùng căm phẫn nổi lên chống lại tên phản bội. Kiều Công Tiễn vội cho người sang cầu cứu chúa Nam Hán.
Ngô Quyền sinh ngày 12 tháng 3 năm Đinh Tỵ (897) ở Đường Lâm (Ba Vì, Hà Tây), cha là Ngô Mân, một hào trưởng có tài đức.
Ngô Quyền thông minh, khôi ngô, mắt sáng như chớp, văn võ toàn tài, được Dương Đình Nghệ tin yêu gả con gái là Dương Thị Ngọc và giao cho Ngô Quyền cai quản đất Ái Châu (Thanh Hóa).
Khi nghe tin bố vợ bị Kiều Công Tiễn giết hại, nhà Nam Hán lại cho con là Vạn Vương Hoằng Tháo đưa quân sang xâm lược nước ta, Ngô Quyền đã nhanh chóng tập hợp lực lượng, đem quân giết chết tên phản bội Kiều Công Tiễn và đón đánh quân Nam Hán.
Để đánh thắng quân xâm lược Nam Hán, ông cho bố trí một trận địa cọc nhọn bịt sắt cắm xuống lòng sông Bạch Đằng.
Tháng 10 năm Mậu Tuất (11-938) các chiến thuyền của giặc hùng hổ vượt biển tiến vào sông Bạch Đằng, quân ta nhử cho thuyền giặc vượt qua trận địa cọc, đợi cho nước thủy triều xuống, quân ta bắt đầu tấn công dữ dội, đánh vỗ mặt và hai bên sườn, làm cho thuyền giặc tháo chạy va vào cọc nhọn bịt sắt bị đắm gần hết. Hoằng Tháo bị đâm chết tại trận, quân ta giết và bắt sống hầu hết quân Nam Hán (đây là chiến thắng Bạch Đằng lần thứ nhất). Sau chiến thắng vang dội trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền lên ngôi Vua, đóng đô ở Cổ Loa (Đông Anh - Hà Nội), đặt ra các quan văn võ, đặt ra nghi lễ triều đình, thể hiện nền độc lập tự chủ của đất nước ta, thật sự chấm dứt hơn một nghìn năm Bắc thuộc, lập ra một quốc gia trường tồn vạn mùa xuân (nhà yêu nước Phan Bội Châu đã từng tôn vinh Ngô Quyền là "Vị tổ trung hưng thứ nhất" của dân tộc Việt Nam).
Ngô Quyền làm Vua được 5 năm (939-944) thì mất, thọ 48 tuổi. Trước khi mất Ngô Quyền đã ủy thác con trưởng là thái tử Ngô Xương Ngập cho em vợ là Dương Tam Kha.
2. Dương Bình Vương (Tam Kha) (945-950):
Dương Tam Kha là con của Dương Đình Nghệ (em vợ của Ngô Quyền) nhận di chiếu giúp thái tử Ngô Xương Ngập, nhưng đã cướp ngôi, tự lên ngôi vua xưng là Dương Bình Vương, Ngô Xương Ngập hoảng sợ chạy trốn về Nam Sách (Hải Dương). Dương Tam Kha nhận con thứ của Ngô Quyền là Ngô Xương Văn làm con nuôi. Hai con khác của Ngô Quyền là Ngô Nam Hưng và Ngô Càn Hưng còn bé thì giao cho bà Dương Thị Ngọc nuôi dưỡng.
Năm Canh Tuất (950), nhân có giặc Chu Thái ở Sơn Tây, Ngô Xương Văn xin đi dẹp loạn, Dương Tam Kha đồng ý cử thêm các tướng Dương Cát Lợi và Đỗ Cảnh Thạc cùng đem quân đi đánh. Khi đến Từ Liêm, Ngô Xương Văn đã bàn mưu với hai tướng đem quân trở lại Cổ Loa bắt Dương Tam Kha, Ngô Xương Văn nghĩ tình cậu cháu không lỡ giết chỉ giáng Dương Tam Kha xuống làm Trương Dương Công.
Ngô Xương Văn là con thứ hai của Ngô Quyền và Dương Thị Ngọc, năm 950 đã dùng mưu lật đổ Dương Tam Kha giành lại ngôi vua cho nhà Ngô. Theo thỉnh cầu của các tướng lĩnh và triều thần, được sự chuẩn tấu của Dương Thái hậu, Ngô Xương Văn lên ngôi vua lấy niên hiệu là Nam Tấn Vương (950-965) đóng đô ở Cổ Loa.
Nam Tấn Vương cho người đi tìm anh là Thái tửu Ngô Xương Ngập, giả làm thầy đồ trốn ở Nam Sách (Hải Dương) lấy vợ và có con trai là Ngô Xương Xí đang sống ở đó, đón về kinh đô.
Theo thỉnh cầu của Ngô Xương Văn, được Dương Thái Hậu chuẩn tấu cả hai anh em đều làm Vua (như vậy nước ta lúc đó có hai vua).
Ngô Xương Ngập lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Thiên Sách Vương (951-959) sau Ngô Xương Ngập bị bệnh thượng mã phong mà chết. Làm vua được 8 năm.
Từ khi Dương Tam Kha cướp ngôi nhà Ngô, các nơi không chịu thuần phục, giặc giã nổi lên như ong, mỗi thủ lĩnh cát cứ một vùng thường đem quân đánh chiếm lẫn nhau gây ra cảnh "nồi da nấu thịt" kéo dài gần 20 năm.
Năm 965, Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn bị bắn chết trong một trận giao chiến với giặc Chu Thái ở hương Thái Bình (Đường Lâm - Sơn Tây), con Thiên Sách Vương là Ngô Xương Xí nối nghiệp làm vua, thế lực ngày càng yếu kém phải lui về giữ đất Bình Kiều. Từ năm 966 hình thành cục diện 12 sứ quân như sau:
1. Ngô Xương Xí giữ Bình Kiều (Nông Cống, Thanh Hóa)
2. Đỗ Cảnh Thạc, giữ Đỗ Động Giang (Thanh Oai, Hà Tây).
3. Trần Lãm, giữ Bố Hải Khẩu (xã Trần Lãm, thị xã Thái Bình), tự xưng là Trần Minh Công.
4. Kiều Công Hãn, giữ Phong Châu (Bạch Hạc, Phú Thọ), tự xưng là Kiều Tam Chế.
5. Nguyễn Khoan, giữ Tam Đái (Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc), tự xưng là Nguyễn Thái Bình.
6. Ngô Nhật Khánh, giữ Đường Lâm (Phú Thọ, Hà Tây), tự xưng là Ngô Lãm Công.
7. Lý Khuê, giữ Siêu Loại (Thuận Thành, Bắc Ninh), tự xưng là Lý Lãng Công.
8. Nguyễn Thủ Tiệp, giữ Tiên Sơn (Bắc Ninh), tự xưng là Nguyễn Lệnh Công.
9. Lý Đường, giữ Tế Giang (Văn Giang, Hưng Yên), tự xưng là Lữ Tá Công.
10. Nguyễn Siêu, giữ Tây Phù Liệt (Thanh Trì, Hà Nội), tự xưng là Nguyễn Hữu Công
11. Kiều Thuận, giữ Hởi Hồ (Cẩm Khê, Phú Thọ), tự xưng là Kiều Lệnh Công.
12. Phạm Bạch Hổ, giữ Đằng Châu (Hưng Yên), xưng là Phạm Phòng Át.
Các sứ quân ấy cứ đem quân đánh lẫn nhau, nhằm bành trướng thế lực khiến cho nhân dân vô cùng khổ sở.
Đinh Bộ Lĩnh là con nuôi của thủ lĩnh Trần Lãm, sứ quân Bố Hải Khẩu. Trần Lãm chết, Đinh Bộ Lĩnh được trao quyền, đã dẹp xong "Loạn 12 sứ quân" quy giang sơn về một mối, lập nên cơ nghiệp nhà Đinh.
Đinh Bộ Lĩnh người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng (Hoa Lư, Ninh Bình), con trai ông Đinh Công Trứ, một nha tướng của Dương Đình Nghệ, giữ chức thứ sử Châu Hoan, cha mất sớm, theo mẹ về quê ở, thường đi chăn trâu, bắt lũ trẻ khoanh tay làm kiệu để ngồi cho chúng rước và lấy bông lau làm cờ bày trận giả đánh nhau. Lớn lên, nhờ thông minh, có khí phách và có tài thao lược, thấy nhân dân khổ sở vì loạn 12 sứ quân, Ông dựng cờ nghĩa, mong lập nghiệp lớn. Đinh Bộ Lĩnh theo về dưới cờ của Trần Minh Công (Trần Lãm) ở Bố Hải Khẩu, được Trần Lãm nhận làm con nuôi. Khi Trần Lãm mất, Đinh Bộ Lĩnh thay quyền đem quân về giữ Hoa Lư, chiêu mộ hào kiệt để dẹp loạn 12 sứ quân.
Năm Mậu Thìn (968) sau khi dẹp xong loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế xưng là Đại Thắng Minh Hoàng Đế, đặt niên hiệu là Thái Bình, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư.
Lê Hoàn sinh năm 941 ở Xuân Lập, Thọ Xuân, Thanh Hoá, trong một gia đình nghèo khổ, bố là Lê Mịch, mẹ là Đặng Thị Sen. Cha mẹ mất sớm, Lê Hoàn phải đi làm con nuôi cho một vị quan nhỏ. Lớn lên, ông đi theo Nam Việt Vương Đinh Liễn đã lập được nhiều chiến công khi Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước, lập nên cơ nghiệp Nhà Đinh. Ông được Đinh Tiên Hoàng phong làm Thập Đạo tướng quân lúc vừa tròn 30 tuổi.
Khi cha con Đinh Tiên Hoàng bị Đỗ Thích giết hại, Đinh Toàn mới 6 tuổi lên ngôi vua. Nhân cơ hội đó, Nhà Tống cho quân sang xâm lược nước ta. Vì lợi ích của dân tộc, Thái hậu Dương Vân Nga đã trao ngôi vua cho Lê Hoàn.
Lê Hoàn xưng là Đại Hành Hoàng Đế đổi niên hiệu là Thiên Phúc, vẫn lấy tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư, phong Dương Vân Nga là Hoàng hậu.
Chỉ trong vòng một tháng, dưới sự chỉ huy tài giỏi tuyệt vời của Lê Đại Hành, quân và dân Đại Cồ Việt đã phá được quân Tống trên hai mặt trận thủy bộ.
- Cánh quân thủy do Lưu Trừng, Giả Thực và một số tướng khác chỉ huy tiến về phía sông Bạch Đằng. Theo kế của Ngô Quyền, trước đó Lê Hoàn đã cho một đạo quân nhỏ ra khiêu chiến, vờ thua để nhử giặc, quân Tống chủ quan, kiêu ngạo đã trúng kế của Lê Hoàn nên bị quân ta đánh tan tành, phải bỏ chạy, không dám vượt Bạch Đằng Giang để tiến sâu vào nội địa.
- Cánh quân bộ do Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng, Trần Khâm Tộ kéo vào Lạng Sơn theo đường sông Thương, khi vừa đến Chi Lăng chưa kịp đề phòng, đã bị Lê Hoàn cho quân trá hàng, rồi bất ngờ đánh úp, Hầu Nhân Bảo bị giết tại trận. Trần Khâm Tộ được tin hoảng hốt rút chạy. Lê Hoàn chỉ huy tướng sỹ truy kích quân giặc, quá nửa quân của Trần Khâm Tộ bị giết, các tướng giặc Quách Quân Biện, Triệu Phụng Hưng bị bắt đem về Hoa Lư. Tôn Toàn Hưng, Lưu Trừng, Giả Thực, Vương Soạn chạy thoát về nước nhưng đều bị vua Tống chém đầu hoặc tống ngục giam cầm đến chết.
Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược của quân dân Đại Cồ Việt do Lê Hoàn lãnh đạo đã giành được thắng lợi vẻ vang. Chiến thắng đó đã củng cố thêm nền độc lập thống nhất của Tổ quốc ta, góp phần tô thắm thêm truyền thống yêu nước, tự cường, bất khuất của dân tộc ta.
Sau khi chỉ huy quân dân cả nước đánh tan quân Tống sang xâm lược nước ta. Nhà vua lo xây dựng lực lượng bảo vệ Tổ quốc, mặt khác đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp để chấn hưng đất nước.
Về đối ngoại thì dùng chính sách ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo nhưng kiên quyết bảo vệ nền độc lập của đất nước.
Năm Ất Tỵ (1005) Lê Đại Hành mất, làm Vua được 25 năm, hưởng thọ 65 tuổi.
Vua Lê Đại Hành có 4 hoàng tử: Long Du, Ngân Trích, Long Việt và Long Đĩnh.
Lê Đại Hành đã cho con thứ ba là Long Việt làm Thái tử. Khi vua Lê Đại Hành băng hà, các hoàng tử tranh ngôi, đánh nhau 7 tháng, đến khi Long Việt lên ngôi làm vua là Lê Trung Tông được 3 ngày thì bị em cùng mẹ là Long Đĩnh giết chết lúc 23 tuổi (983 - 1005).
Lê Long Đĩnh cướp ngôi của anh là Lê Trung Tông, lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Đại Thắng Minh Quang Hiếu Hoàng đế vẫn đóng đô ở Hoa Lư.
Lê Long Đĩnh đã làm việc càn dỡ giết Vua cướp ngôi, thích dâm đãng, tàn bạo, róc mía trên đầu nhà sư... Do chơi bời trác táng quá, nên khi ra thiết triều phải nằm, tục gọi là Lê Ngoạ Triều. Lê Ngoạ Triều làm vua được 4 năm (1005 - 1009) thì mất, thọ 24 tuổi. Long Đĩnh mất, con tên là Sạ còn bé. Dưới sự đạo diễn của quan Chi hậu nhân Đào Cam Mộc, triều thần đã tôn Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế.
Như vậy Nhà Tiền Lê trải qua 3 đời vua, tồn tại 29 năm.
Lý Công Uẩn người hương Cổ Pháp (Từ Sơn, Bắc Ninh), mẹ họ Phạm, sinh ngày 12 tháng 02 năm Giáp Tuất (974), mẹ chết khi Ông còn nhỏ tuổi, thiền sư Lý Khánh Văn nhận làm con nuôi, Lý Công Uẩn thông minh và có chí khí khác người ngay từ nhỏ.
Nhờ sự nuôi dạy của nhà sư Lý Khánh Văn và Lý Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn trở thành người xuất chúng, văn võ kiêm toàn, làm đến chức Điện tiền chỉ huy sứ, khi Lê Ngọa Triều mất, triều thần tôn Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế vào đầu năm Canh Tuất (1010), đặt niên hiệu Thuận Thiên, vẫn lấy Quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư.
Tháng 7 năm 1010, vua Lý Thái Tổ cho dời đô về thành Đại La, một buổi sáng đẹp trời, thuyền vừa cập bến, Nhà Vua thấy Rồng vàng bay lên, do đó đặt tên là Kinh đô Thăng Long (tức là Hà Nội ngày nay).
Vua Thái Tổ chỉnh đốn lại việc cai trị, chia đất nước làm 24 lộ.
Ngày Mậu Tuất, tháng 3 năm Mậu Thìn (1028) Lý Thái Tổ mất, trị vì 18 năm, thọ 55 tuổi.
Vua Lý Thái Tổ sinh các hoàng tử: Thái tử Phật Mã, Dực Thánh Vương, Khai Quốc Vương Bồ, Đông Chính Vương Lực, Võ Đức Vương Hoàng.
Khi Vua Thái Tổ vừa mất, chưa kịp làm lễ tang, các hoàng tử Võ Đức Vương, Dực Thánh Vương, Đông Chính Vương đem quân vây Hoàng thành để tranh ngôi vua với Thái tử, nhờ có Lê Phụng Hiểu trung dũng xông ra chém chết Võ Đức Vương, hai hoàng tử kia bỏ chạy.
Triều thần cùng Lê Phụng Hiểu phò Thái tử Phật Mã lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu là Thiên Thành.
Lý Thái Tông sinh ngày 26 tháng 6 năm Canh Tý (1000). Vua là người trầm mặc, có trí, biết trước mọi việc, đánh đâu được đấy, năm 1020 quân Chiêm Thành quấy rối nơi biên ải phía Nam, Lý Thái Tổ sai Thái tử Phật Mã làm Nguyên soái, đã đánh tan quân Chiêm Thành, bắt được tướng giặc đem về.
Khi làm vua, Người quan tâm mở mang bờ cõi, xây dựng lực lượng để bảo vệ đất nước, đoàn kết với các dân tộc ít người, thể hiện rõ bằng cách ngày 07 tháng 3 năm Kỷ Tỵ (1029), Vua gả công chúa Bình Dương cho Châu mục Châu Lạng là Thân Thiện Thái.
Dực Thánh Vương và Đông Chính Vương về kinh xin chịu tội nổi loạn. Lý Thái Tông nghĩ tình cốt nhục, bèn tha tội cho và phục lại chức cũ cho hai người. Cũng vì sự phản nghịch ấy cho nên vua Lý Thái Tông mới lập lệ: Cứ hàng năm các quan phải đến đền Đồng Cổ (ở làng Yên Thái - Hà Nội bây giờ) làm lễ đọc lời thề: "Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung, ai bất hiếu bất trung, xin quỷ thần làm tội", các quan ai trốn không đến, phải phạt 50 trượng.
Lý Thái Tông còn chú ý đến việc lập pháp. Năm Nhâm Ngọ (1042), nhà vua ban hành "Hình thư", đây là bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta.
Năm Giáp Ngọ (1054), Vua Lý Thái Tông mất, trị vì 26 năm, thọ 55 tuổi.
Lý Thánh Tông tên húy là Nhật Tôn, sinh ngày 25 tháng 02 năm Quý Hợi (1023), là con bà Kim Thiên Thái Hậu họ Mai.
Lý Thái Tông lên ngôi vua ngày 01 tháng 10 năm Giáp Ngọ (1054), đặt niên hiệu là Long Thụy Thái Bình. Quốc hiệu là Đại Việt.
Mùa thu tháng Tám năm Canh Tuất (1070), Lý Thánh Tông cho mở trường lập văn Miếu tại kinh đô Thăng Long để thờ Khổng Tử và để các hoàng tử đến đấy học.
Nhà sử học Ngô Sỹ Liên ghi trong “Đại Việt sử ký toàn thư”: “... Vua khéo kế thừa, thực lòng thương dân, trọng việc làm ruộng, thương kẻ bị hình, vỗ về thu phục người xa, đặt khoa bác sĩ, hậu lễ dưỡng liêm, sửa sang việc văn, phòng bị việc võ, trong nước yên tĩnh, đáng gọi là bậc Vua tốt. Song nhọc sức xây tháp Báo Thiên, phí của dân làm cung Dâm Đàm, đó là chỗ kém”.
Lý Thánh Tông mất năm Nhâm Tý (1072) trị vì 18 năm, thọ 50 tuổi.
Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1072-1127 thời Lý Nhân Tông đến giai đoạn 1414-1427 thời kỳ đấu tranh chống nhà Minh (Trung Quốc)
4. Lý Nhân Tông (Lý Càn Đức) (1072 – 1127):
Niên hiệu: - Thái Ninh (1072-1075)
- Anh Võ Chiêu Thắng (1076-1084)
- Quảng Hựu (1085-1091)
- Hội Phong (1092-1100)
- Long Phù (1101-1109)
- Hội Tường Đại Khánh (1110-1119)
- Thiên Phù Duệ Võ (1120-1126)
- Thiên Phù Khánh Thọ (1127)
Thái tử Càn Đức là con trưởng của Lý Thánh Tông, mẹ là bà Nguyên phi Ỷ Lan, sau là Thái hậu Linh Nhân. Thái tử sinh ngày 25 tháng Giêng năm Bính Ngọ (1066), khi Lý Thánh Tông mất, Thái tử lên ngôi Hoàng đế (1072) lúc mới 7 tuổi, Hoàng Thái hậu Ỷ Lan phải buông rèm nhiếp chính.
Tháng 2 năm Ất Mão (1075), mở khoa thi Nho học đầu tiên, Lê Văn Thịnh đỗ đầu trở thành bậc khai khoa của các nhà khoa bảng nước ta.
Năm Bính Thìn (1076), vua cho mở Trường Quốc Tử Giám ở kinh đô Thăng Long, là trường quốc học cao cấp đầu tiên ở nước ta.
Năm 1075, thời Tống Thần Tông, Vương An Thạch làm Tể tướng âm mưu xâm lược nước ta, Thái úy Lý Thường Kiệt biết rõ âm mưu xâm lược của nhà Tống nên đã đánh phá các căn cứ tập kết lương thực, vũ khí của chúng ở Châu Khâm, Châu Liêm, Châu Ung (Quảng Đông, Quảng Tây) rồi chủ động rút quân về nước lập phòng tuyến ở bờ nam sông Cầu để chặn giặc.
Đầu năm 1077, Quách Quỳ và Triệu Tiết dẫn 10 vạn quân và 1 vạn ngựa chiến sang xâm lược nước ta, bị chặn lại bên bờ bắc sông Cầu hơn 2 tháng, quân dân ta đánh du kích tiêu hao sinh lực địch rất nhiều, làm cho giặc hoang mang, dao động “tiến thoái lưỡng nan”.
Chính trên phòng tuyến sông Cầu này, đêm khuya thanh vắng, Lý Thường Kiệt cho người nấp trong đền thờ Trương tướng quân, thổi sáo và ngâm bài thơ nổi tiếng:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư,
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!
Dịch:
Sông núi nước Nam, vua Nam ở,
Rõ ràng phân định tại sách trời,
Cớ sao nghịch tặc sang xâm phạm?
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời!
Đây chính là “Bản tuyên ngôn độc lập” lần thứ nhất của Tổ quốc ta.
Quân ta nghe đọc mấy câu thơ ấy, ai nấy đều nức lòng đánh giăc, quân Tống bị tổn thất nặng nề và ở vào thế bị động.
Biết rõ ý chí xâm lược của quân Tống đã bị đè bẹp, Lý Thường Kiệt liền chủ động đề nghị "giảng hòa" thực chất là mở lối thoát cho quân Tống, đó là chủ trương kết thúc chiến tranh mềm dẻo của Lý Thường Kiệt. Ngay lập tức, tháng 3 năm 1077, quân Tống rút lui trong cảnh hỗn loạn. Quách Quỳ sợ quân ta tập kích, nên đã bí mật cho binh lính rút lui vào ban đêm. Quân Tống rút đến đâu, Lý Thường Kiệt cho quân theo sát lấy lại đất đai đến đo.
Sau chiến thắng quân Tống xâm lược, nền độc lập của Tổ quốc ta lại vững bền.
Nhân dân ta vô cùng phấn khởi, được an cư lạc nghiệp, sống trong cảnh thái bình.
Ngày 12 tháng 12 năm Đinh Mùi (1127), Lý Nhân Tông mất, trị vì được 56 năm, thọ 62 tuổi.
5. Lý Thần Tông (Lý Dương Hoán) (1128-1138):
Niên hiệu: - Thiên Thuận (1128-1132)
- Thiên Chương Bảo Tự (1133-1138)
Vua Lý Nhân Tông không có con trai, lập con của em trai là Sung Hiền Hầu Dương Hoán lên làm Thái tử, kế vị Hoàng đế là vua Lý Thần Tông.
Lý Thần Tông sinh tháng 6 năm Bính Thân (1116), đến năm Đinh Dậu (1117) được Lý Nhân Tông nhận làm con nuôi. Lên ngôi vua cuối tháng 12 năm Đinh Mùi (1127).
Vua Lý Thần Tông khuyến khích phát triển nông nghiệp, thực hiện chính sách "ngụ binh ư nông", cho binh lính đổi phiên, cứ lần lượt 6 tháng một được về làm ruộng, do vậy nhân dân no đủ, an cư lạc nghiệp.
Lý Thần Tông mất ngày 26 tháng 9 năm Mậu Ngọ (1138), trị vì được 10 năm, thọ 23 tuổi.
Lý Thần Tông có hai con trai: Thiên Tộ và Thiên Lộc.
6. Lý Anh Tông (Lý Thiên Tộ) (1138 - 1175):
Niên hiệu: - Thiệu Minh (1138-1139)
- Đại Định (1140-1162)
- Chính Long Bảo Ứng (1163-1173)
- Thiên Cảm Chí Bảo(1174-1175)
Lý Thiên Tộ là con đích trưởng của Lý Thần Tông, con bà Lê Hoàng hậu, sinh tháng 4 năm Bính Thìn (1136), lên ngôi Hoàng đế năm 1138, lúc đó mới 3 tuổi. Lê Thái hậu cầm quyền nhiếp chính lại tư thông với Đỗ Anh Vũ làm cho triều đình đổ nát, sau nhờ có các trung thần như Tô Hiến Thành, Hoàng Nghĩa Hiền, Lý Công Tín nên giữ vững được cơ đồ nhà Lý.
Tô Hiến Thành đã giúp vua Lý Anh Tông đánh Đông dẹp Bắc giữ cho nước yên, luyện tập quân lính, kén chọn nhân tài giúp nước, làm cho nước Đại Việt trở nên cường thị.
Năm Tân Mão và năm Nhâm Thìn (1171-1172), vua Lý Anh Tông sai làm tập bản đồ nước Đại Việt.
Lý Anh Tông mất tháng 7 năm ất Mùi (1175), trị vì được 37 năm, thọ 40 tuổi.
7. Lý Cao Tông (Lý Long Cán) (1176 - 1210)
Niên hiệu: - Trịnh Phù (1176-1185)
- Thiên Tư Gia Thụy (1186-1201)
- Thiên Gia Bảo Hựu (1202-1204)
- Trị Bình Long Ứng (1205-1210)
Lý Anh Tông mất, Thái tử Long Cán lúc đó chưa đầy 3 tuổi, bà Chiêu Linh Thái hậu muốn lập con cả của mình là Long Xưởng lên ngôi vua. Bà đem vàng bạc đút lót cho vợ Tô Hiến Thành, nhưng Tô Hiến Thành nhất định không nghe cứ theo di chiếu lập Long Cán lên làm vua, hiệu là Lý Cao Tông.
Lý Cao Tông sinh ngày 25 tháng 5 năm Quý Tỵ (1173), lê ngôi vua tháng 7 năm Ất Mùi (1175).
Lớn lên Cao Tông chơi bời vô độ, chính sự hình pháp không rõ ràng, giặc cướp nổi lên như ong, đói kém liên miên, cơ nghiệp nhà Lý từ đó suy đồi.
Năm Bính Thìn (1208) có loạn Quách Bốc, vua Cao Tông đem gia quyến chạy lên vùng Tam Nông (Phú Thọ). Thái tử Sảm theo Tô Trung Từ chạy về Hải ấp (làng Lưu Xá, Hưng Hà, Thái Bình) vào ở nhà ông Trần Lý làm nghề đánh cá. Thấy con gái Trần Lý là Trần Thị Dung xinh đẹp thì lấy làm vợ rồi phong cho Trần Lý tước Minh Tự, phong cho Tô Trung Từ, cậu ruột của Trần Thị Dung chức Điện tiền chỉ huy sứ.
Anh em nhà Trần: Trần Thừa, Trần Tự Khánh, Trần Thủ Độ mộ quân giúp Thái tử Sảm khôi phục kinh đô Thăng Long rồi lên Tam Nông rước Cao Tông về kinh đô.
Cao Tông mất ngày 28 tháng 10 năm Canh Ngọ (1210), trị vì được 34 năm, thọ 38 tuổi.
8. Lý Huệ Tông (Lý Hạo Sảm) (1211-1224):
Niên hiệu: - Kiến Gia (1211-1224)
Thái tử Sảm lên ngôi Hoàng đế, hiệu là Huệ Tông, lập Trần Thị Dung làm nguyên phi. Phong cho Trần Tự Khánh làm Chương Tín hầu, Tô Trung Tự làm Thái uý, Thuận Lưu Bá, Trần Thừa làm Nội thị phán thủ.
Thái tử Sảm sinh tháng 7 năm Giáp Dần (1194) con cả của Cao Tông và bà Hoàng hậu họ Đàm.
Lý Huệ Tông lên ngôi vua cuối năm Canh Ngo (1210).
Năm Quý Mùi (1223), Trần Tự Khánh mất, Trần Thừa được phong làm Phụ quốc thái uý, Trần Thủ Độ làm Điện tiền chỉ huy sứ.
Vua Huệ Tông thường rượu chè say khướt suốt ngày, bỏ bê triều chính. Huệ Tông không có con trai. Hoàng hậu Trần Thị Dung chỉ sinh được hai con gái. Con gái lớn là Thuận Thiên công chúa đã gả cho Phụng kiều vương Trần Liễu, công chúa thứ 2 là Phật Kim (công chúa Chiêu Thánh) mới 7 tuổi được làm Thái tử.
Đến tháng 10 năm Giáp Thân (1224), Lý Huệ Tông truyền ngôi cho công chúa Chiêu Thánh rồi đi tu ở chùa Chân Giáo.
Lý Huệ Tông trị vì được 13 năm, sau bị Trần Thủ Độ ép tự tử vào tháng 8 năm Bính Tuất (1226), thọ 33 tuổi.
9. Lý Chiêu Hoàng (Phật Kim) (1224-1225):
Niên hiệu: - Thiên Chương Hữu Đạo (1224-1225)
Dưới sự đạo diễn của Trần Thủ Độ, Lý Huệ Tông bị ép đi tu, nhường ngôi vua cho con gái là công chúa Chiêu Thánh (lúc đó mới 7 tuổi) là Lý Chiêu Hoàng. Binh quyền về tay Trần Thủ Độ.
Cũng dưới sự đạo diễn của Trần Thủ Độ, Trần Cảnh (8 tuổi) là con ông Trần Thừa được đưa vào hầu cận Lý Chiêu Hoàng.
Trần Cảnh được Lý Chiêu Hoàng yêu mến, thường hay té nước, ném khăn trêu đùa.
Trần Thủ Độ tung tin là Lý Chiêu Hoàng đã lấy chồng là Trần Cảnh.
Ngày 21 tháng 10 năm Ất Dậu (1225), có chiếu của Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh.
Ngày 11 tháng 12 năm Ất Dậu (1225), Lý Chiêu Hoàng mở hội lớn ở điện Thiên An, trước bá quan văn võ, Chiêu Hoàng cởi hoàng bào mời Trần Cảnh lên ngôi Hoàng đế đổi niên hiệu là Kiến Trung năm thứ nhất, dựng lên triều đại nhà Trần từ đấy. Phong cho Lý Chiêu Hoàng là Chiêu Thánh Hoàng hậu.
Nhưng sau bất hạnh đã đến với Chiêu Thánh Hoàng hậu, nguyên do lấy Trần Cảnh đã hơn 10 năm mà vẫn chưa có con, Trần Thủ Độ và vợ là Trần Thị Dung sợ vua Thái Tông Trần Cảnh tuyệt tự, không người nối dõi ngôi vua, bèn lấy Thuận Thiên công chúa (chị ruột của Chiêu Thánh), vợ Trần Liễu (anh ruột Trần Cảnh) đang có mang ép gả cho Trần Cảnh tháng 01 năm Đinh Dậu (1237), lập Thuận Thiên làm Hoàng hậu. Chiêu Thánh đau khổ, âm thầm trong cung cấm, đã định thoát tục đi tu.
Nhưng may thay 20 năm sau, hạnh phúc đã đến với Chiêu Thánh. Sau chiến thắng đế quốc Mông Cổ lần thứ nhất (1258), vua Trần Thái Tông đã gả Chiêu Thánh Công chúa cho Lê Phụ Trần, một tướng quân có công lớn trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mông Cổ. Lúc đó Chiêu Thánh đã 40 tuổi, nhưng đã tìm thấy hạnh phúc thực sự, bà sinh dược hai người con: Lê Tông làm quan dưới triều Trần đến tước Thượng Vị hầu và Ngọc Khê được phong là Ứng Thụy công chúa.
Chiêu Thánh mất năm 60 tuổi.
Như vậy, Vương triều Lý tồn tại 215 năm, với 9 đời vua trị vì.
Vương triều Lý đã có công làm cho nước Đại Việt trở thành một nước cường thịnh ở thế kỷ XI-XII, ngoài thì đánh Tống, bình Chiêm, trong thì chỉnh đốn việc võ bị, sửa sang pháp luật, xây dựng nền độc lập tự chủ. Song vì vua Cao Tông hoang chơi, làm mất lòng người, cho nên giặc giã nổi lên, loạn thần nhiễu sự. Vua Lý Huệ Tông lại nhu nhược, bỏ qua chính sự, đem giang sơn phó thác cho người con gái còn thơ dại, khiến cho họ Trần được dịp mà lấy giang sơn nhà Lý lập ra cơ nghiệp nhà Trần từ đó.
Phần đọc thêm
DANH NHÂN THỜI LÝ
Đất nước Việt Nam ta, thời nào cũng sản sinh ra những anh hùng của dân tộc và những danh nhân của đất nước. Xin giới thiệu một số danh nhân của thời Lý:
NGUYÊN PHI Ỷ LAN
Tên thật là Lê Thị Yến, quê ở làng Thổ Lỗi (Thuận Thành, Bắc Ninh) nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
Mẹ mất từ lúc 12 tuổi, bố lấy vợ kế nên Ỷ Lan cũng khổ như cô Tấm trong chuyện cổ tích.
Năm ấy, vua Lý Thánh Tông đã 40 tuổi mà chưa có con trai nối dõi nên về chùa Dâu cầu tự. Dân làng đổ ra xem, chỉ riêng cô Yến vẫn vừa hái dâu vừa hát. Nhà vua thấy lạ, cho người vời lại hỏi thì đấy là một cô thôn nữ bội phần xinh đẹp, lại đối đáp lưu loát. Vua cảm mến đưa về triều, phong làm Nguyên phi Ỷ Lan.
Nguyên phi Ỷ Lan sinh ra Thái tử Càn Đức ngày 25 tháng Giêng năm Bính Ngọ (1066). Khác với các hậu phi, Ỷ Lan không lấy việc trau chuốt nhan sắc làm chính, mà chỉ miệt mài đọc sách, khổ công học hỏi, nên trong một thời gian ngắn, triều thần đều kinh ngạc trước sự hiểu biết uyên thâm về nhiều mặt của Ỷ Lan.
Năm 1069, Vua Lý Thánh Tông đích thân cầm quân đi đánh giặc Chiêm Thành. Ỷ Lan được trao quyền nhiếp chính, cũng năm đó nước ta không may bị lụt lớn, mùa màng thất bát, nhiều nơi bị đói khổ, bà đã cho mở kho thóc dự trữ phát trẩn cho dân, nhờ có tài trị nước đúng đắn, quyết đoán táo bạo của bà mà loạn lạc đã được dẹp yên, dân đói đã được cứu sống. Cảm ơn đó, nhân dân ta đã tôn thờ bà Ỷ Lan là Quan Âm nữ.
Vì quân Chiêm Thành thường sang cướp phá vùng biên giới, Lý Thánh Tông phải đem quân đi đánh Chiêm Thành, đánh mãi không được, nhà vua bèn rút quân về đến châu Cư Liên nghe tin Nguyên Phi ở nhà giám quốc, trong nước được yên trị, Thánh Tông nghĩ rằng:"Nguyên Phi là đàn bà còn làm được như thế, ta là nam nhi lại chẳng được việc gì hay sao". Bèn đem quân trở lại đánh bắt được vua Chiêm Thành là Chế Củ.
Vua Chiêm Thành là Chế Củ bị bắt xin dâng 3 châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính để chuộc tội "ba châu ấy nay thuộc Quảng Bình, Quảng Trị", vua Lý Thánh Tông lấy ba châu ấy, rồi tha Chế Củ về nước.
Năm 1072, Lý Thánh Tông đột ngột qua đời, Ỷ Lan trở thành Hoàng Thái hậu nhiếp chính vì lúc đó vua Lý Nhân Tông mới 7 tuổi, cùng với Lý Thường Kiệt nắm quyền Tể tướng làm cho đất nước ta ngày càng cường thịnh.
Năm 1077, nhà Tống phát đại binh sang xâm lược nước ta. Thái hậu Ỷ Lan cử Thái uý Lý Thường Kiệt chuyên tâm lo việc binh chống giặc ngoại xâm và cho người vào Nghệ An đón Lý Đạo Thành về làm Thái sư để cùng bà điều khiển triều đình, huy động sức người, sức của cho cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Tống. Nhờ vậy mà chỉ trong vòng mấy tháng quân giặc đã phải rút chạy về nước.
Thái hậu Ỷ Lan hiểu rõ nỗi khổ của nông dân. Bà lấy tiền kho chuộc những người con gái nghèo bị bán rồi dựng vợ gả chồng cho họ.
Bà nhắc nhở nhà vua trị tội thật nặng những kẻ ăn trộm trâu và giết trâu vì bà cho rằng "nông dân có con trâu là đầu cơ nghiệp".
Ngày 25 tháng Bảy năm Đinh Dậu (1117), Hoàng Thái hậu Ỷ Lan qua đời, nhân dân ta vô cùng thương tiếc, nhiều nơi lập đền thờ.
THÁI ÚY LÝ THƯỜNG KIỆT
Năm 1019 tại căn nhà của một võ quan ở phường Thái Hoà (phía trên vườn Bách Thảo ngày nay) con trai đầu lòng của ông Ngô An Ngữ và bà họ Hàn ra đời, được đặt tên là Ngô Tuấn.
Năm Thiên Thành đời Lý Thái Tông, ông Ngô An Ngữ được cử đi tuần ở phía nam Thanh Hoá, ít lâu sau lâm bệnh qua đời.
Chồng của cô ruột là Tạ Đức đem Ngô Tuấn về nuôi dạy văn võ.
Năm Ngô Tuấn 18 tuổi (1036) mẹ mất. Ngô Tuấn cùng em lo đủ các lễ mai táng. Hết tang, ông được bổ chức Kỵ mã hiệu uý. Do tính siêng năng, cần mẫn lại hết lòng trung thành, ông được vua tin yêu thăng thưởng dần lên đến chức Đô tri và được đổi sang họ vua gọi là Lý Thường Kiệt.
Năm 1061, được cử vào trấn giữ vùng núi Thanh - Nghệ hiểm trở, ông đã vỗ về nhân dân chăm lo sản xuất, khai khẩn đất hoang làm cho cuộc sống ấm no, biên cương vững vàng.
Năm 1075, nhà Tống do Vương An Thạch làm Tể tướng âm mưu chuẩn bị xâm lược nước ta.
Thái uý Lý Thường Kiệt tâu với Thái hậu Ỷ Lan: "Ngồi yên đợi giặc, không bằng đưa quân ra trước". Thái hậu đồng ý cho Lý Thường Kiệt và Tông Đản đem quân sang đánh phá các căn cứ tập kết lương thực, vũ khí của nhà Tống ở Châu Khâm, Châu Liêm, Châu Ung (Quảng Đông, Quảng Tây). Sau 42 ngày đêm chiến đấu một cách thông minh, ngoan cương, quân đội Đại Việt đã sn bằng ba căn cứ quân sự lớn đó rồi chủ động rút quân về nước. Để ngăn chặn quân xâm lược Tống, Lý Thường Kiệt đã cho xây dựng một phòng tuyến dài khoảng 80km, lấy dòng sông Cầu làm hào, dùng đê mạn nam ngạn sông Cầu làm thành lũy.
Đầu năm 1077, Quách Quỳ và Triệu Tiết dẫn 10 vạn bọ binh tinh nhuệ, 1 vạn ngựa chiến cùng 20 vạn quân phu, ồ ạt tiến vào xâm lược nước ta. Quân xâm lược đã bị quân dân cả nước chặn đánh ngay từ cửa ải Lạng Sơn. Ngày 18 tháng 01 năm 1077 quân Tống tiến đến bờ bắc sông Cầu và bị chặn lại hơn 2 tháng, quân dân Đại Việt dùng chiến tranh du kích tiêu hao sinh lực địch, làm cho quân giặc hoang mang, giao động "tiến thoái lưỡng nan".
Chính trên phòng tuyến sông Cầu này, đêm khuya thanh vắng, Lý Thường Kiệt cho người nấp trong đền thờ Trương tướng quân, ngâm bài thơ thần bốn câu:
Namquốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư,
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!
Tạm dịch:
Sông núi nước Nam, vua Nam ở,
Rõ ràng phân định tại sách trời,
Cớ sao nghịch tặc sang xâm phạm?
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời!
Giọng thơ vang như sấm động, nhắc đi nhắc lại nhiều lần, quân ta nghe thơ đều phấn chấn, còn quân Tống bên kia sông cũng nghe thấy đứa nào, đứa nấy đều sợ hãi mất mật.
Bài thơ khẳng định quyền độc lập tự chủ thiêng liêng của Tổ quốc, cảnh báo nghiêm khắc mọi kẻ thù xâm lược và nói lên quyết tâm sắt đá của dân tộc ta trong việc bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Bài thơ đã đi vào lịch sử của dân tộc ta như bản "Tuyên ngôn độc lập" thứ nhất của Tổ quốc ta (cách nay gần 1000 năm).
Đúng vào lúc giặc Tống đang bị dồn vào tình thế khốn quẫn nhất, Lý Thường Kiệt hạ lệnh tấn công. Đó là một ngày cuối mùa xuân năm 1077. Trước hết, hai vị hoàng tử là Hoằng Chân và Chiêu Văn dùng 400 thuyền chiến, bất ngờ đánh mạnh vào khu vực đóng quân của Quách Quỳ. Hoằng Chân và Chiêu Văn vừa đánh vừa phô chương thanh thế, cốt thu hút toàn bộ sự chú ý của quân xâm lăng. Một trận ác chiến đã diễn ra, trong trận ác chiến này hai vị hoàng tử là Hoằng Chân và Chiêu Văn đều anh dũng hy sinh. Nhưng đúng lúc Quách Quỳ và Triệu Tiết dồn hết sự chú ý vào cánh quân của hai hoang tử thì đại quân do đích thân Lý Thường Kiệt đánh dồn dập vào khu vự đóng quân của Triệu Tiết như sấm sét nổ trên đầu giặc. Đại bộ phận quân Tống ở đây đều bị tiêu diệt. Chỉ trong một đêm, tình thế đã xoay chuyển hoàn toàn. Quách Quỳ và Triệu Tiết vội vã ra lệnh rút quân tháo chạy về nước. Nền độc lập của Tổ quốc ta lại được vững bền.
Sinh thời, Lý Thường Kiệt không ngừng nêu cao tấm gương sáng ngời về tinh thần đoàn kết vì nghĩa lớn, không ngừng nêu cao phẩm giá trung quân ái quốc khi vận nước lâm nguy cũng như khi non sông được thái bình.
Lý Thường Kiệt đã góp phần đắc lực cùng vua và triều đình trong sự nghiệp xây dựng đất nước, đặc biệt là góp phần củng cố sức mạnh của guồng máy nhà nước đương thời. Trong khoảng 10 năm sau khi Lý Thánh Tông qua đời (1069) Lý Nhân Tông còn thơ ấu, Lý Thường Kiệt thực sự là linh hồn của đất nước, là người chịu trách nhiệm lớn nhất trong sự nghiệp điều khiển vận mệnh của quốc gia trong giai đoạn khó khăn nhất ở thế kỷ XI.
Ông đã để lại cho đời một số áng văn thơ, trong đó nổi bật nhất là bài tứ tuyệt không đề, được hậu thế chọn bốn chữ đầu làm đề để dễ truyền tụng, đó là bốn chữ Nam quốc sơn hà - một trong những áng thiên cổ hùng văn, có giá trị như bản "Tuyên ngôn độc lập" lần thứ nhất của nước ta.
Tháng Sáu năm Ất Dậu (1105), Đôn Quốc Thái uý Lý Thường Kiệt mất, thọ 86 tuổi. Điều đáng nói là trước khi qua đời một năm (1104) đã 85 tuổi, Lý Thường Kiệt vẫn là tướng tổng chỉ huy quân đội, đã đánh và đánh thắng một trận rất lớn ở phía Nam đất nước.
Nhà vua truy tặng Ông chức: Nhập nội điện đô tri hiển hiệu thái uý bình chương quân quốc trọng sự, tước Việt quốc công.
Để tưởng nhớ công lao to lớn của người anh hùng dân tộc, nhiều nơi lập đền thờ Ngài.
Năm 1126 (tức là 21 năm sau khi Ngài mất), nhà sư Thích Pháp Bảo có soạn bàiNgưỡng Sơn Linh Xứng tu bi minh, (bài minh, khắc trên bia đá, đặt tại chùa Linh Xứng, núi Ngưỡng Sơn) trong đó có đoạn:
Việt hữu Lý Công
Cố nhân chuẩn thưc
Mục quận lý ninh
Chuẩn sự tất khắc
Danh dương hàm hạ
Thanh chán hà vực.
Có nghĩa là:
Nước Việt có người họ Lý
Theo đúng phép của người xưa
Đã cầm quân là tất thắng lợi
Đã trị nước thì dân được yên
Danh Lừng thiên hạ
Tiếng vang khắp xa gần.
Đền thờ Lý Thường Kiệt được lập nên ở nhiều nơi trong khắp đất nước ta. Ngày nay Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đều chọn đường phố lớn đặt tên "Đại lộ Lý Thường Kiệt" để tưởng nhớ công lao to lớn của Ngài.
LÊ PHỤNG HIỂU
Lê Phụng Hiểu quê ở Băng Sơn, gọi là thôn Bưng (Hoằng Hoá, Thanh Hoá). Ông say mê đánh vật, đấu quyền, quăng đao, múa kiếm.
Lý Thái Tổ tuyển người giỏi võ vào đội quân Thượng Đô. Ông lên Kinh dự thi, và được tuyển dụng. Chỉ ít lâu sau ông được thăng đến chức Vũ vệ tướng quân.
Năm 1028, Lý Thái Tổ mất, Thái tử Phật Mã lên ngôi tức là Lý Thái Tông. Ba Hoàng tử là Đông Chính Vương, Dực Thánh Vương, Vũ Đức Vương vây kinh thành để cướp ngôi (gọi là loạn tam Vương). Lê Phụng Hiểu chỉ huy quân cấm vệ, đánh tan được bọn vương tử làm loạn.
Ngôi vua được bảo vệ, Lý Thái Tông phong ông là Đô thống. Năm 1043, quân Chiêm Thành sang xâm lược nước ta, Lê Phụng Hiểu hộ giá Lý Thái Tông đi đánh giặc. Năm 1044 chiến thắng trở về, vua xét ban thưởng quan tước, ông không nghe, xin trèo lên núi Băng Sơn ném con đao lớn ra xa. Đao rơi xuống nơi nào thì xin ban cho vùng đó để dựng nghiệp. Vua ưng thuận. Ông đứng trên núi Băng Sơn vung tay ném đao xuống núi. Đao rơi xuống thôn Đa Mi, tính đến hơn một nghìn mẫu đất gọi là "Thác đao điền".
TÔ HIẾN THÀNH
Tô Hiến Thành, hiệu Phi Diên, người làng hạ Mỗ, huyện Ô Diên nay là thôn Hạ Mỗ, xã Hồng Thái, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây.
Là người khảng khái, làm quan đến Thái phó rồi Thái uý đời vua Lý Anh Tông, ông là người trung thực và liêm khiết.
Ông đã có nhiều công to: năm Kỷ Mão (1159) ông đánh tan giặc Ngưu Thống và Ai Lao vào cướp phá biên giới phía tây nam và ven biển, năm Đinh Hợi (1157) đánh Chiêm Thành thắng lợi.
Khi ông lâm bệnh sắp mất có Tham tri chính sự Võ Tán Dương sớm tối lo hầu hạ, còn quan Gián nghị đại phu là Trần Trung Tá vì bận việc nước không hề đến thăm, nhưng khi Thái hậu hỏi: "Ông mất thì ai sẽ nối nghiệp?" Ông trả lời không do dự: "Gián nghị đại phu Trần Trung Tá...".
Tháng Sáu năm Kỷ Hợi (1179), Tô Hiến Thành qua đời.
XIV. NHÀ TRẦN (1225-1400) 175 NĂM,
QUỐC HIỆU ĐẠI VIỆT, KINH ĐÔ THĂNG LONG
1. Trần Thái Tông (Trần Cảnh) (1225-1258):
Niên hiệu:- Kiến Trung (1225-1241)
- Thiên Ứng Chính Bình (1242-1250)
- Nguyên Phong (1251-1258)
Tên húy Trần Bồ, sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần (1218), con thứ của ông Trần Thừa và bà họ Lê. Tổ tiên Nhà Trần là Trần Kinh vốn gốc ở Đông Triều (Quảng Ninh) chuyên nghề đánh cá, đến ở hương Tức Mạc, phủ Thiên Trường (nay là xã Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định), sinh ra Trần Hấp. Trần Hấp sinh ra Trần Lý. Trần Lý sinh ra Trần Thừa, Trần Tự Khánh và Trần Thị Dung. Trần Thủ Độ là cháu họ, được Trần Lý nuôi nấng từ nhỏ coi như con. Trần Thừa sinh ra Trần Liễu và Trần Cảnh là con trai, sau có mối tình với cô thôn nữ ở thôn Bà Liệt tên là Tần, sinh ra Trần Bá Liệt. Dưới sự đạo diễn của Trần Thủ Độ, lúc đó là Điện Tiền chỉ huy sứ, ngày 21 tháng 10 năm Ất Dậu (1225), Lý Chiêu Hoàng xuống chiếu nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh.
Ngày 11 tháng 12 năm Ất Dậu (1225), Trần Cảnh chính thức lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Kiến Trung.
Phong Lý Chiêu Hoàng làm Chiêu Thánh Hoàng hậu
Phong Trần Thủ Độ là Thái sư thống quốc hành quân vụ chinh thảo sự.
Mùa hạ, tháng 6 năm Nhâm Thìn (1232), vua Trần Thái Tông ban bố các chữ quốc huý và miếu huý.
Vì Tổ nhà Trần là Trần Lý, mới đổi họ Lý sang họ Nguyễn.
Một số hoàng thân nhà Lý sợ hãi, tìm cách di cư ra nước ngoài như hoàng tử Lý Long Tường đã di cư sang Cao Ly (sau trở thành anh hùng chống Nguyên - Mông của Cao Ly).
Năm Đinh Dậu (1237), Trần Thái Tông lấy Chiêu Thánh Hoàng hậu đã 12 năm mà chưa có con. Trần Thủ Độ và vợ là công chúa Thiên Cực ép vua Trần Thái Tông bỏ Chiêu Thánh để lấy chị dâu (vợ Trần Liễu) là công chúa Thuận Thiên đã có mang 3 tháng làm Hoàng hậu. Trần Liễu tức giận đem quân ra sông Cái làm loạn. Còn vua Trần Thái Tông đang đêm bỏ trốn lên chùa Phù Vân, núi Yên Tử, Quảng Ninh để phản đối.
Trần Thủ Độ dẫn các triều thần lên núi mời vua trở về kinh sư. Vua nói: "Vì trẫm non trẻ chưa cáng đáng nổi sứ mệnh nặng nề, phụ hoàng lại vội lìa bỏ, sớm mất chỗ trông cậy, nên không dám giữ ngôi vua mà làm nhục xã tắc".
Trần Thủ Độ cố nài xin nhiều lần, vua vẫn không nghe, mới bảo mọi người rằng: "Xa giá ở đâu là triều đình ở đó" rồi sai người xây dựng cung điện ở ngay tại chùa Phù Vân. Vị quốc sư ở chùa phải vào van lạy nhà Vua. Nhà Vua bất đắc dĩ phải theo xa giá về kinh đô.
Trần Liễu làm loạn ở sông Cái được vài tuần, lượng thấy thế cô, bèn ngầm đi thuyền đến chỗ vua xin hàng, anh em nhìn nhau mà khóc.
Trần Thủ Độ nghe tin, đến thẳng thuyền vua, rút gươm định giết Trần Liễu. Nhà Vua phải lấy thân mình che đỡ cho anh. Trần Thủ Độ tức lắm ném gươm xuống sông nói: "Ta chỉ là con chó săn thôi, biết đâu anh em các người thuận nghịch thế nào?"
Vua nói giải hoà, rồi bảo Trần Thủ Độ rút quân về.
Nhà Vua lấy đất Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang (nay là Đông Triều, Yên Hưng, Quảng Ninh) là đất thang mộc và phong cho anh là Yên Sinh Vương.
Hoàng hậu Thuận Thiên sau sinh ra Quốc Khang, thái tử Hoảng, Quang Khải, Nhật Vĩnh, Ích Tắc, Nhật Duật đều được phong Vương, và các công chúa Thiều Dương, Thuỵ Bảo.
Kháng chiến chống đế quốc Mông Cổ lần thứ nhất (1258):
Năm Đinh Tỵ (1257) Hốt Tất Liệt sai một đạo quân do tướng Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy đánh lấy nước Đại Lý (Vân Nam) và sai sứ sang dụ ta hàng. Vua Trần Thái Tông bắt giam sứ Mông Cổ và hạ lệnh cho các quan ngoài biên ải đề phòng cẩn mật, ba lần sứ sang Đại Việt đều không thấy về.
Ngày 12 tháng 12 năm 1257, Hốt Tất Liệt sai danh tướng Ngột Lương Hợp Thai đem 10 vạn quân sang xâm lược nước ta, dưới sự lãnh đạo của Trần Thái Tông, Trần Thủ Độ và Trần Quốc Tuấn, toàn quân và toàn dân ta đã dũng cảm chống lại một kẻ thù là đế quốc Mông Cổ hung hãn và mạnh nhất thời đại bấy giờ (quân Mông Cổ đã chiếm đóng hầu khắp châu Âu, đến tận Ba Tư và đã chiếm đóng gần hết Trung Quốc).
Thế giặc mạnh quá, để bảo toàn lực lượng, ta phải bỏ kinh đô Thăng Long lui quân về giữ Mạn Trù, Khoái Châu, Hưng Yên. Vua Trần Thái Tông ngự thuyền đến hỏi ý kiến Thái uý Nhật Hiệu thì Nhật Hiệu lấy nước viết vào mạn thuyền hai chữ "Nhập Tống". Vua lại đến hỏi ý kiến Thái sư Trần Thủ Độ. Trần Thủ Độ khảng khái nói rằng: "Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo".
Trần Thái Tông nghe thấy Trần Thủ Độ nói cứng cỏi như thê, trong bụng mới được yên.
Quân dân Đại Việt ta đã dùng chiến tranh du kích, vườn không nhà trống để tiêu hao sinh lực kẻ thù, đợi cho kẻ thù bị quẫn bách về lương thực, khốn khổ vì không hợp thuỷ thổ. Ngày 29-01-1258, Trần Thái Tông, Trần Thủ Độ chỉ huy tướng lĩnh đem binh thuyền từ sông Thiên Mạc ra sồn Hồng tiến về Thăng Long. Quân ta tổ chức phản công địch ở Đông Bộ Đầu thắng lớn.
Quân Mông Cổ bị quân ta đánh bật khỏi kinh thành Thăng Long, chúng rút chạy về Vân Nam. Đến trại Quy Hóa, quân giặc đã bị trại chủ Hà Bổng chỉ huy quân dân địa phương ra đón đánh, làm cho quân giặc bị thiệt hại nặng nề, chúng hoảng sợ cắm đầu chạy thoát thân không dám nghĩ đến chuyện cướp boc, đốt phá như khi chúng mới tiến quân vào Đại Việt.
Thế là, đất nước ta sạch bóng quân thù, giữ vững được nền độc lập dân tộc của Tổ quốc.
Ngày 24 tháng 2 năm Mậu Ngọ (1258), vua Trần Thái Tông nhường ngôi cho Thái tử Trần Hoảng, đây là một cách tập sự cho con quen với việc trị nước. Triều đình tôn Thái Tông lên làm Thái Thượng hoàng đế để cùng coi việc nước.
Ngày mồng 01 tháng 4 năm Đinh Sửu (1277), Thái Thượng hoàng mất, thọ 60 tuổi, trị vì được 33 năm, làm Thái Thượng hoàng 19 năm.
2. Trần Thánh Tông (Trần Hoảng) (1258-1278):
Niên hiệu: - Thiệu Long (1258-1272)
- Bảo Phù (1273-1278)
Tên húy là Hoảng, là con trưởng dòng đích của Thái Tông, mẹ là Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng Thái hậu Lý Thị, sinh ngày 25 tháng 9 năm Canh Tý (1240). Ngày 24 tháng 02 năm Mậu Ngọ (1258) lên ngôi hoàng đế đổi niên hiệu là Thiệu Long năm thứ 1.
Thánh Tông là một vị vua nhân từ độ lượng, hết lòng chăm lo việc nước. Đối nội, nhà vua khuyến khích khai khẩn đất hoang, mở mang điền trang thái ấp bằng cách chiêu tập những người nghèo đói lưu lạc, giúp họ an cư lạc nghiệp. Nhà vua khuyến khích việc học hành bằng cách mở các khoa thi để lựa chọn người tài mà trọng dụng, thời Trần đã xuất hiện "Lưỡng quốc Trạng nguyên" Mạc Đĩnh Chi, nhà sử học Lê Văn Hưu đã viết bộ quốc sử đầu tiên của nước ta là "Đại Việt sử ký" (1272).
Đối ngoại, lúc đó nhà Nguyên đã chiếm toàn bộ Trung Quốc của nhà Tống, đang chuẩn bị điều kiện để thôn tính Đại Việt, chúng sai sứ sang phong Vương cho Vua Trần Thánh Tông và bắt nước ta cứ 3 năm một lần cống nạp nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói, thầy tướng số và những nghệ nhân giỏi mỗi loại 3 người cùng với những sản vật: sừng tê giác, ngà voi, đồi mồi, châu báu và những vật lạ khác, chúng còn đòi đặt quan Chưởng ấp giám sát các châu quận Đại Việt để chuẩn bị xâm lược nước ta.
Vua Trần Thánh Tông đã thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo những rất kiên quyết, nhằm bảo vệ danh dự và nền độc lập của Tổ quốc. Mặt khác, quan tâm đến việc luyện tập quân sĩ, tích trữ lương thực, vũ khí chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ hai. Vua Trần Thánh Tông ở ngôi được 20 năm, làm Thái Thượng hoàng 12 năm. Ngày 25 tháng 5 năm Canh Dần (1290) Thái Thượng Hoàng mất ở cung Nhâm Thọ, hưởng thọ 51 tuổi.
Vua Trần Thánh Tông có ba người con: Thiên Thụy công chúa, Thái tử Trần Khâm và Tá Thiên Vương Đức Việp.
3. Trần Nhân Tông (Trần Khâm) (1279-1293):
Niên hiệu: - Thiệu Bảo (1279-1284)
- Trùng Hưng (1285-1293)
Thái tử Trần Khâm, con trưởng Thánh Tông, mẹ là Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng Thái hậu, sinh ngày 11 tháng 11 năm Mậu Ngọ (1258).
Ngày 22 tháng 10 năm Mậu Dần (1278) lên ngôi Hoàng đế đổi niên hiệu là Thiệu Bảo năm thứ nhất tính từ năm Kỷ Mão (1279).
Vua Trần Nhân Tông là một vị vua nhân từ, hoà nhã, cố kết lòng dân, quyết đoán, hết lòng vì dân vì nước trong thời gian 14 năm ở ngôi. Đất nước Đại Việt ta trải qua hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông hùng mạnh nhất thế giới thời bấy giờ.
Kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ 2 (1285):
Tháng 12-1284, vua Nguyên sai Thái tử Thoát Hoan đem 50 vạn quân sang xâm lược nước ta, có thêm 10 vạn quân của Toa Đô chỉ huy từ Chiêm Thành đánh ra Nghệ An, kẹp ta vào thế bị đánh cả hai đầu.
Giúp việc Thoát Hoan có tả tướng Lý Hằng, hữu tướng Lý Quán làm Tham tán nhung vụ và bọn đại tướng Toa Đô, Ô Mã Nhi, Đường Ngột Đải, Phàn Tiếp v.v...
Trước khi, quân Nguyên vào xâm lược nước ta, Thái Thượng Hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông đã sắc phong cho Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn là Quốc Công tiết chế chỉ huy toàn bộ quân dân Đại Việt kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông.
Các vua Trần đã tổ chức Hội nghị quân sự ở Bình Than và tháng 8-1284, Hưng Đạo Đại Vương tổ chức tập trận ở Đông Bộ Đầu. Người đã công bố "Hịch tướng sĩ" để khích lệ lòng yêu nước của toàn quân, toàn dân.
Các vua Trần đã tổ chức hội nghị các bô lão trong cả nước ở điện Diên Hồng để hỏi ý dân nên hàng hay nên đánh, cả nước đồng lòng "đánh". Quân và dân ta khắc vào tay hai chữ "Sát Thát" (Giết giặc Nguyên). Với quyết tâm giết giặc của toàn quân và toàn dân, dưới sự chỉ huy chiến lược tuyệt vời của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, để đánh thế mạnh của quân địch ban đầu, ta tổ chức cầm cự và bỏ kinh đô Thăng Long để bảo toàn lực lượng, dùng chiến tranh du kích, vườn không nhà trống để tiêu hao sinh lực địch, đợi cho quân địch khốn khổ vì thiếu lương thực mới tổ chức phản công địch ở mọi phía. Với chiến thắng lẫy lừng ở Chương Dương, Hàm Tử, Tây Kết, Vạn Kiếp... chỉ trong vòng nửa năm, quân Nguyên bị đánh tơi bời, phải rút chạy. Toa Đô, Lý Hằng, Lý Quán bị chém đầu tại trận, còn Thoát Hoan phải chui vào ống đồng cho người khiêng chạy về nước mới thoát chết.
Ngày 06 tháng 6 năm 1285, quân và dân ta tiến về giải phóng kinh đô Thăng Long, mở hội ca khúc khải hoàn.
Trong chiến thắng quét sạch quân Nguyên - Mông lần này ra khỏi bờ cõi, có công lao to lớn của hai anh em tù trưởng dân tộc ít người miền núi Vĩnh Phú là Hà Đặc và Hà Chương đã dùng mưu trí, tổ chức dân binh địa phương, phối hợp với quân triều đình, đánh quân Nguyên - Mông ở sau lưng địch, làm cho chúng mất ăn mất ngủ. Hà Đặc đã anh dũng hy sinh ở A Lạp khi đánh quân giặc đang bắc cầu phao ở đó. Chiến thắng quân Nguyên - Mông lần thứ 2 (1285) đã thể hiện sức mạnh đoàn kết kháng chiến chống ngoại xâm của toàn thể cộng đồng các dân tộc Đại Việt thời bấy giờ.
Kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ ba (1288):
Sau hai lần xâm lược nước ta bị thất bại nhục nhã, Vua Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt vô cùng căm giận, ra lệnh đình chỉ việc chuẩn bị tấn công Nhật Bản để huy động 50 vạn quân ở các tỉnh Giang Hoài, Hồ Quảng, Giang Tây, Vân Nam và các châu ngoài biển như Nhai, Quỳnh Đam... vẫn trao cho Thoát Hoan thống Lĩnh, cho A Bát Xích làm Hành tỉnh tả thừa, Áo Lỗ Xích làm Bình chương chính sự, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp làm Tham tri chính sự đưa Trần Ích Tắc (quốc vương bù nhìn) sang xâm lược nước ta một lần nữa.
Thoát Hoan sai Vạn Hộ hầu Trương Văn Hổ theo đường biển vận tải 70 vạn thạch lương thực sang cung cấp cho quân xâm lược.
Mùa đông năm Đinh Hợi (1287), quân Nguyên dưới sự chỉ huy của Trấn Nam Vương Thoát Hoan ồ ạt kéo vào xâm lược nước ta.
Dưới sự chỉ huy tài giỏi của Quốc Công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, toàn quân và dân ta lại dùng chiến tranh du kích, vườn không nhà trống để tiêu hao sinh lực địch.
Ngày 24-11-1287, Hưng Đức hầu Quán đã cho quân mai phục dùng tên thuốc độc bắn giết được nhiều giặc ở cửa Linh Kinh.
Ngày 28-11-1287, phán thủ thượng vị Nhân Đức Hầu Toán đánh lui địch ở eo biển Đa Mỗ (Móng Cái, Quảng Ninh), quân ta bắt sống 40 tên, thu được nhiều thuyền, ngựa chiến.
Ngày 28 tháng chạp năm 1287, quân ta phục kích bắn chết Sảnh đô sự hầu Sư Đạt của giặc tại ải Nội Bàng.
Ngày 08-1-1288, quân ta đánh bắt được 300 thuyền giặc tại cửa biển Đại Bàng, giặc bị giết và chết đuối rất nhiều.
Tại trận Vân Đồn, Thoát Hoan sai Ô Mã Nhi đem quân ra đón thuyền lương của Trương Văn Hổ, gặp quân của Trần Khánh Dư, hai bên giao chiến, Trần Khánh Dư thất bại, vua Trần cho Trung sứ bắt về trị tội, Trần Khánh Dư xin ở lại lập công chuộc tội.
Khánh Dư trở lại, chờ cho Ô Mã Nhi đi qua, đem quân tấn công vào đoàn thuyền trở lương thực của Trương Văn Hổ, cướp được nhiều lương thực và vũ khí còn lại cho đánh thuyền chìm xuống biển. Trương Văn Hổ phải lẻn xuống thuyền nhỏ trốn về nước (11-01-1288).
Trần Khánh Dư thắng trận đưa thư về báo tiệc. Thượng Hoàng mừng rỡ, xá tội cho Khánh Dư và bảo Hưng Đạo Vương rằng: "Quân Nguyên cốt trông cậy có lương thảo, vũ khí nay đã bị ta cướp mất cả rồi, thì thế nó không tràng cửu được nữa. Nhưng nó chưa biết tất còn đắc chí, vậy ta nên tha những quân bị bắt về báo tin cho Thoát Hoan, thì quân sỹ nó tât ngã lòng, bấy giờ phá mới dễ".
Hưng Đao Vương tuân lệnh, tha cho lũ quân Nguyên bị bắt về. Từ đấy, quân Thoát Hoan xôn xao, có bụng muốn về nước vì lương thực mỗi ngày một cạn.
Thoát Hoan muốn cho người về nước cầu viện và lấy thêm lương thực, Hưng Đạo Vương đoán biết, đã sai tướng đem quân lên giữ núi Kỳ Cấp và ải Nữ Nhi ở mặt Lạng Sơn không cho người đi lại.
Thoát Hoan thấy quân thế của Hưng Đạo Vương mạnh lắm, chưa có thể phá được, bèn nghe lời các tướng, sai Ô Mã Nhi, Phàm Tiếp dẫn thủy quân theo đường sông Bạch Đằng về trước. Còn mặt bộ thì sai Trình Bằng Phi, Trương Quân dẫn binh đi chặn hậu.
Hưng Đạo Vương biết mưu đó, bèn sai Nguyễn Khoái dẫn binh lẻn qua đường tắt, lên mé thượng lưu sông Bạch Đằng, dùng gỗ đẽo nhọn bịt sắt đóng khắp giữa dòng sông, rồi phục kích chờ đến lúc nước thủy triều lên thì đem binh thuyền ra khiêu chiến, nhử cho thuyền giặc qua chỗ đóng cọc. Hễ lúc nào thủy triều xuống thì quay binh lại hết sức mà đánh.
Tháng 3 năm Mậu Tý (1288), quân ta nhử địch đuổi theo khi nước thuỷ triều lên, đến lúc thuỷ triều xuống thì thuyền sa vào trận địa cọc, quân ta đánh quật lại, Hưng Đạo Đại Vương dẫn quân tấn công mãnh liệt ở mọi phía, quân giặc chết như rạ, máu loang đỏ cả khúc sông Bạch Đằng. Quân ta bắt sống Ô Mã Nhi, Tích Lệ Cơ Ngọc, Phàn Tiếp và hơn 400 thuyền chiến, bắt được quân giặc rất nhiều.
Thoát Hoan nghe tin thủy quân đã vỡ rồi, hốt hoảng dẫn bọn Trình Băng Phi, A Bát Xích, Trương Quân, Trương Ngọc theo đường bộ chạy về ải Nội Bàng, bỗng gặp quân phục của Phạm Ngũ Lão đổ ra đánh, Trương Quân dẫn 300 quân đi đoạn hậu để bảo vệ cho Thoát Hoan chạy. Trương Quân đã bị Phạm Ngũ Lão chém chết, Thoát Hoan chạy thoát ra được ngoài cửa ải, còn quân sĩ mười phần, tổn thất 6-7 phần.
Từ cửa ải Nữ Nhi đến núi Kỳ Cấp đều có quân ta phục sẵn. A Bát Xích, Trương Ngọc bị quân ta bắn tên độc xuống như mưa, cả hai tên tướng giặc đều bị bắn chết. Còn Trình Bằng Phi hết sức bảo vệ cho Thoát Hoan chạy ra Đan Kỳ, qua Lộc Châu rồi lẻn qua đường tắt chạy về châu Tự Minh.
Áo Lỗ Xích đi sau, chạy thoát được, mới nhặt nhạnh toàn quân theo cả Thoát Hoan về Yên Kinh.
Thế là, chỉ trong vòng chưa đầy nửa năm, cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ ba của quân dân Đại Việt giành được thắng lợi hoàn toàn.
Vua Trần Nhân Tông đã cho đem các tướng giặc bị bắt là Tích Lệ Cơ Ngọc, Ô Mã Nhi, Sầm Đoàn, Phàn Tiếp, nguyên soái Điền và các Vạn hộ, Thiên hộ làm lễ dâng thắng trận ở Chiêu Lăng:
Khi vua cử lễ bái yết, có làm bài thơ rằng:
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu.
Dịch:
(Xã tắc hai phen bon ngựa đá,
Non sông ngàn thuở vững âu vàng).
Trong lễ mừng công khen thưởng chiến thắng quân Nguyên - Mông lần thứ 3, nhà vua đã cho tù trưởng Lạng Giang là Lương Uất làm trại chủ Quy Hoá, Hà Tất Năng làm Quan Phục hầu vì đã có công chỉ huy người dân tộc thiểu số đánh giặc, một lần nữa thể hiện rõ sức mạnh đoàn kết giữa cộng đồng các dân tộc Đại Việt dưới triều Trần.
Sau 14 năm ở ngôi Vua, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con là Anh Tông, làm Thái thượng Hoàng rồi sau đi tu, trở thành Thuỷ tổ của phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử.
Năm 1308, Trần Nhân Tông qua đời tại Am Ngoạ Vân núi Yên Tử (Đông Triều, Quảng Ninh ngày nay) thọ 51 tuổi.
4. Trần Anh Tông (Trần Thuyên) (1293-1314):
Niên hiệu: Hưng Long (1293-1314)
Tên huý là Thuyên, con trưởng của Trần Nhân Tông và mẹ là Khâm Từ Bảo Thánh Hoàng Thái hậu, có hai em là Huệ Võ Vương Quốc Chẩn và em gái là Huyền Trân công chúa.
Trần Anh Tông sinh ngày 17 tháng 9 năm Bính Tý (1276).
Tháng 02 năm Nhâm Thìn (1292), được tấn phong Thái tử. Tháng 3 năm Quý Tỵ (1293) lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu là Hưng Long.
Trần Anh Tông khéo biết kế thừa sự nghiệp của tổ tiên, cho nên thời cuộc đi đến thái bình, chính trị trở nên tốt đẹp, văn vật chế độ ngày càng thịnh vượng, cũng là một vua tốt của triều Trần.
Tháng 6 năm Bính Ngọ (1306), Trần Anh Tông gả công chúa Huyền Trân (em gái) cho vua Chiêm Thành là Chế Mân. Vua Chiêm Thành dâng hai châu Ô, châu Lý làm lễ vật dẫn cưới.
Tháng Giêng năm Đinh Mùi (1307), Trần Anh Tông đổi hai châu đó thành châu Thuận, châu Hóa và sai Hành Khiển Đoàn Nhữ Hài đến kinh lý và đặt quan cai trị hai châu đó.
Ngày 18 tháng 3 năm Giáp Dần (1314), Anh Tông nhường ngôi cho thái tử Mạnh, để làm Thượng hoàng.
Ngày 16 tháng 3 năm Canh Thân (1320), Thượng hoàng Trần Anh Tông mất, trị vì được 21 năm, thọ 45 tuổi.
5. Trần Minh Tông (Trần Mạnh) (1314-1329):
Niên hiệu:- Đại Khánh (1314-1323)
- Khai Thái (1324-1329)
Tên huý là Mạnh, con thứ tư của Trần Anh Tông, mẹ là Chiêu Hiến Hoàng Thái hậu Trần Thị, con gái của Bảo Nghĩa đại vương Trần Bình Trọng, sinh năm Canh Tý (1300).
Ngày 18 tháng 3 năm Giáp Dần (1314) lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu là Đại Khánh.
Trần Minh Tông có lòng nhân hậu, biết tôn trọng nhân tài nên có nhiều hiền thần dưới trướng như Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Chu Văn An, Nguyễn Trung Ngạn, Đoàn Nhữ Hài, nhưng đã quá tin bọn nịnh thần giết oan chú ruột, đồng thời là bố vợ là Huệ Võ Vương Trần Quốc Chẩn, một lỗi lầm lớn của Trần Minh Tông.
Năm Ất Tỵ (1329), Vua nhường ngôi cho thái tử Vượng.
Ngày 19 tháng 12 năm Đinh Dậu (1357), Minh Tông mất, thọ 58 tuổi.
6. Trần Hiến Tông (Trần Vượng) (1329-1341):
Niên hiệu: Khai Hựu (1329-1341)
Tên huý là Vượng, con bà Minh Từ hoàng thái phi Lê Thị, sinh ngày 17 tháng 5 năm Kỷ Mùi (1319). Ngày 15 tháng 02 năm Kỷ Tỵ (1329) lên ngôi vua mới 10 tuổi, ở ngôi 12 năm, nhưng việc điều khiển triều chính đều do Thượng hoàng Minh Tông đảm nhận.
Ngày 11 tháng 6 năm Tân Tỵ (1341), Trần Hiến Tông mất, thọ 23 tuổi.
7. Trần Dụ Tông (Trần Hạo) (1341-1369):
Niên hiệu: - Thiệu Phong (1341-1357)
- Đại Trị (1358-1369)
Tên huý là Trần Hạo, con thứ 10 của Minh Tông, do Hiến Từ hoàng hậu sinh ra.
Trần Dụ Tông sinh ngày 19 tháng 10 năm Bính Tý (1336), lên ngôi vua ngày 21 tháng 8 năm Tân Tỵ (1341).
Vua rất thông tuệ, học vấn cao minh, chăm lo việc võ, sửa sang việc văn, cho nên đời Thiệu Phong chính sự tốt đẹp.
Năm 1358, Vua đổi niên hiệu là Đại Trị. Thượng hoàng Minh Tông mất, các trung thần như Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn cũng đã mất, bọn gian thần kéo bè kéo đảng, Dụ Tông sinh ra rượu chè chơi bời quá độ, khiến cho triều đình đổ nát, giặc giã nổi lên như ong, nhân dân cực khổ trăm bề. Chu Văn An dâng "sớ thất trảm" xin chém đầu 7 gian thần, nhưng vua không nghe, ông liền treo ấn từ quan về dạy học.
Năm Kỷ Dậu (1369), vua Dụ Tông mất, ở ngôi được 28 năm, thọ 34 tuổi.
Dụ Tông mất thì bão táp ở cung đình nhà Trần nổi lên vì bà Hoàng thái hậu nhất định đòi lập người con nuôi của Cung Túc Vương là Dương Nhật Lễ lên ngôi.
Dương Nhật Lễ (1369-1370):
Niên hiệu: Đại Định (1369-1370)
Dương Nhật Lễ vốn là con của người kép hát tên là Dương Khương. Vợ Dương Khương đã có thai với Dương Khương rồi mới lấy Cung Tuc Vương Dục (là con thứ của Trần Minh Tông). Khi Dương Nhật Lễ sinh ra Cung Túc Vương nhận làm con nhưng chẳng bao lâu Cung Túc Vương mất.
Khi Dụ Tông mất, quyền bính nằm hết trong tay bà Hiến Từ Tuyên Thánh Hoàng Thái hậu.
Ngày 15 tháng 6 năm Kỷ Dâu (1369), Hiến Từ Tuyên Thánh Hoàng Thái hậu đưa Dương Nhật Lễ lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Đại Định (1369-1370).
Nhật Lễ lên làm vua muốn cải họ Dương để dứt ngôi nhà Trần. Hắn giết bà Hoàng Thái Hậu, và Cung Định Vương. Cung Tĩnh Vương hoảng sợ bỏ trốn lên Đà Giang.
Các tôn thất nhà Trần hội nhau khởi binh giết chết Nhật Lễ rồi lên Đà Giang rước Cung Tĩnh Vương về làm vua, tức là Trần Nghệ Tông.
8. Trần Nghệ Tông (Trần Phủ) (1370-1372):
Niên hiệu: Thiệu Khánh (1370-1372)
Trần Nghệ Tông tên huý là Trần Phủ, sinh tháng 12 năm Tân Dậu (1321) con thứ ba của Minh Tông và bà Minh Từ Hoàng Thái phi họ Lê, lên ngôi vua ngày 15 tháng 11 năm Canh Tuất (1370), sau khi đã lật đổ Dương Nhật Lễ.
Vua ở ngôi được 02 năm, nhường ngôi 27 năm, thọ 74 tuổi.
Vua dẹp yên được nạn bên trong, khôi phục cơ đồ nhà Trần, song cung kính kiệm ước thì có thừa mà cương nghị, quyết đoán lại không đủ. Bên ngoài, vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga đem quân vượt biển vào cửa Đại An tiến đánh kinh đô Thăng Long, quân ta chống không nổi. Vua Nghệ Tông phải bỏ kinh thành chạy sang Đình Bảng lánh nạn. Quân Chiêm Thành vào đốt sạch cung đình, bắt đàn bà con gái, lấy hết vàng bạc châu báu rồi rút quân về. Ngày 9 tháng 11 năm Nhâm Tý (1372), Nghệ Tông nhường ngôi cho em là Trần Kính, lui về Thiên Trường làm Thái Thượng hoàng.
9. Trần Duệ Tông (Trần Kính) (1373-1377):
Niên hiệu: Long Khánh (1373-1377)
Tên huý là Kính, con thứ 11 của Minh Tông, em Nghệ Tông, mẹ là Đôn Từ Hoàng Thái phi, sinh ngày 02 tháng 6 năm Đinh Sửu (1337). Khi Nghệ Tông lánh nạn, Trấn Kính chiêu mộ quân lính, vũ khí, lương thực để đánh Nhật Lễ, đón Nghệ Tông về, nên được nhường ngôi, làm vua được 5 năm, thọ 41 tuổi. Duệ Tông ương gàn cố chấp, không nghe lời can, khinh thường quân giặc nên mang hoạ vào thân.
Năm Bính Thìn (1376), Vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga đem sang cống 10 mâm vàng, quan chấn thủ Hóa Châu là Đỗ Tử Bình ỉm đi, cướp làm của mình rồi dâng sớ nói dối là Chế Bồng Nga ngạo mạn, vô lễ, xin vua cử binh sang đánh.
Tháng 12 năm 1376, nghe lời tấu man của Đỗ Tử Bình (trấn thủ Hoá Châu) Nhà Vua thân chinh đem 12 vạn quân đi đánh Chiêm Thành, tháng Giêng năm 1377 đại quân tiến đến cửa Thị Nại (Quy Nhơn). Chế Bồng Nga dựng trại bên ngoài thành Đồ Bàn (Bình Định) rồi cho Mục Bà Na đến trá hàng nói là Chế Bồng Nga đã bỏ thành chạy trốn. Ngày 24 tháng Giêng, Vua thúc quân tiến vào thành. Đại tướng Đỗ Lễ can mãi Vua không nghe cứ tiến quân đến chân thành Đồ Bàn thì quân Chiêm Thành ở bốn phía đổ ra đánh, quân ta thua to. Vua chết trong đám loạn quân.
10. Trần Phế Đế (Trần Hiện) (1377-1388)
Niên hiệu: Xương Phù (1377-1388)
Tên huý là Trần Hiện, con trưởng của Duệ Tông, mẹ là bà Gia Từ Hoàng hậu Lê Thị, sinh ngày 06 tháng 3 năm Tân Sửu (1361). Khi Duệ Tông chết ở mặt trận phương Nam, Nghệ Tông lập Hiện lên ngôi vua ngày 13 tháng 4 năm Đinh Tỵ (1377).
Vua u mê, bạc nhược không làm nổi việc gì, uy quyền ngày càng về tay Hồ Quý Ly.
Năm Mậu Ngọ (1378), quân Chiêm Thành lại sang đánh Nghệ An, rồi theo sông Đại Hoàng vào cướp phá kinh đô Thăng Long một lần nữa.
Ngày 06 tháng 12 năm 1388, Thượng hoàng Nghệ Tông giáng Phế Đế xuóng làm Linh đức Đại vương, sau đó bắt thắt cổ chết, và lập con út của mình lên làm vua là Trần Thuận Tông.
11. Trần Thuận Tông (Trần Ngung) (1388-1398):
Niên hiệu: Quang Thái (1388-1398)
Tên huý là Trần Ngung, là con út của Nghệ Tông, ở ngôi được 10 năm, xuất gia hơn 1 năm, thì bị Hồ Qúy Ly giết, thọ 22 tuổi. Vua chỉ ngồi giữ ngôi không, còn việc nước thì ở trong tay bố vợ là Hồ Quý Ly.
Năm Kỷ Tỵ (1389), Chế Bồng Nga lại đem quân sang đánh Đại Việt, Hồ Quý Ly đưa quân cự chiến nhưng thua trận phải rút chạy. Thượng hoàng sai đô tướng là Trần Khát Chân đem quân đi chặn giặc.
Tháng Giêng năm Canh Ngọ (1390), Chế Bồng Nga đi thị sát trận địa của Trần Khát Chân ở Hải Triều (Hưng Nhân, Thái Bình và Tiên Lữ, Hưng Yên) nhân có tên tiểu thần của Chế Bồng Nga là Ba Lậu Kê bị Chế Bồng Nga trách phạt, chạy sang hàng quân ta cho Trần Khát Chân hay dấu hiệu đặc biệt của thuyền chở Chế Bồng Nga. Trần Khát Chân đã khéo dụ địch sa vào trận mai phục rồi ra lệnh cho các cây súng (hoả súng) nhất tề nhả đạn, bắn trúng thuyền Chế Bồng Nga, xuyên suốt ván thuyền. Chế Bồng Nga trúng đạn chết tại trận. Trần Khát Chân chém đầu Chế Bồng Nga đem về triều dâng Vua và Thượng hoàng.
Tướng Chiêm Thành là La Ngai đem tàn quân chạy về nước chiếm ngôi vua. Hai con của Chế Bồng Nga là Chế Ma Nô Đà Nan và Chế Sơn Nô sợ bị giết, đã chạy sang hàng Đại Việt, được vua Trần trọng dụng.
Ngày 15 tháng 02 năm Giáp Tuất (1394), Thượng hoàng Trần Nghệ Tông mất, Hồ Quý Ly lên làm phụ chính Thái sư, thâu tóm toàn bộ quyền bính để dễ đường cướp ngôi vua. Hồ Quý Ly quyết định dời đô vào Thanh Hoá, xây thành Tây Đô (ở động An Tôn, Vĩnh Lộc).
Tháng 11-1397, Hồ Quý Ly bức Vua Thuận Tông phải dời kinh về Tây Đô.
Tháng 3-1398, ép Thuận Tông nhường ngôi cho con trai là Trần Án để đi tu ở cung Bảo Thanh tại nuí Đại Lại (Thanh Hoá).
12. Trần Thiếu Đế (Trần Án) (1398-1400)
Niên hiệu: Kiến Tân (1398-1400)
Tên huý là Trần Án, mới 3 tuổi lên kế nghiệp tức là Thiếu Đế. Hồ Quý Ly xưng là Khâm Đức Hưng Liệt đại vương, rồi sai người giết con rể là Thuận Tông.
Ngày 28 tháng 02 năm Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly bức Thiếu Đế nhường ngôi.
Triều Trần kể từ Trần Thái Tông Đến Trần Thiếu Đế là 12 đời vua, trị vì được 175 năm.
Dân tộc ta rất đáng tự hào dưới triều Trần, có những vị vua anh hùng như Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông đã lãnh đạo quân dân Đại Việt ba lần đánh tan quân xâm lược Nguyên - Mông, một đế quốc hùng mạnh nhất thế giới bấy giờ, một đế quốc rộng mông mênh từ bờ Thái Bình Dương đến Hắc Hải.
Song, cơ nghiệp nhà Trần suy vi từ Dụ Tông, Nghệ Tông. Dụ Tông thì hoang chơi vô độ, bỏ bễ chính sự, làm loạn kỷ cương phép nước, làm cho dân nghèo, nước yếu.
Nghệ Tông thì nhu nhược không biết dùng hiền thần mà chỉ nghe bọn nịnh thần, làm cho cơ nghiệp nhà Trần về tay kẻ khác.
Phần đọc thêm
NHÂN VẬT LỊCH SỬ NỔI TIẾNG THỜI TRẦN
Đất nước Việt Nam,ta thời nào cũng sản sinh ra những anh hùng dân tộc và những danh nhân của đất nước, dưới đây chúng tôi chỉ xin giới thiệu một số "nhân vật lịch sử nổi tiếng thời Trần".
LINH TỪ QUỐC MẪU TRẦN THỊ DUNG
Trần Thị Dung là con gái Trần Lý, em gái của Trần Thừa và Trần Tự Khánh và là anh em họ với Trần Thủ Độ.
Thái Tử Sảm chạy loạn Quách Bốc về ở nhờ Hải ấp của ông Trần Lý, thấy Trần Thị Dung xinh đẹp xin lấy làm vợ vào năm 1209.
Anh em nhà Trần đã mộ quân lính dẹp loạn Quách Bốc đón vua Lý Cao Tông và Thái tử Sảm về Triều.
Cuối năm 1210, Thái tử Sảm lên ngôi hoàng đế là Lý Huệ Tông lập Trần Thị Dung làm nguyên phi, đến giữa năm 1216 được phong làm Hoàng hậu.
Trần Thị Dung cùng với Lý Huệ Tông sinh được hai công chúa: Thuận Thiên công chúa gả cho Trần Liễu và Chiêu Thánh công chúa (tức là Lý Chiêu Hoàng) lấy Trần Cảnh. Lý Huệ Tông đi tu rồi chết. Tháng 12-1225, Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Thái Tông.
Tháng 8-1226, nhà Trần đã gả Hoàng hậu triều Lý là Trần Thị Dung cho Thái sư Trần Thủ Độ.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ nhất, bà Trần Thị Dung đã có công chỉ huy hoàng tộc chủ động rút khỏi kinh đô Thăng Long, sau đó lại lo liệu thu nhặt sắt thép, động viên các hiệp thợ ngày đêm rèn đúc vũ khí để cung cấp cho quân ta. Bà còn lo liệu cả lương thực, thực phẩm để cung cấp cho quân đội đánh giặc.
Sau chiến thắng ở Đông Bộ Đầu vào tháng 01-1258, quân dân Đại Việt đuổi giặc Nguyên - Mông ra khỏi bờ cõi, giữ vững nền độc lập của Tổ quốc.
Với công lao to lớn của bà, nhà Vua đã sắc phong bà là Linh Từ Quốc Mẫu.
THÁI SƯ TRẦN THỦ ĐỘ
Trần Thủ Độ sinh năm Giáp Dần (1194), ở làng Lưu Xá (Hưng Hà, Thái Bình) là cháu họ ông Trần Lý, được ông Trần Lý nuôi dạy từ nhỏ và coi như con. Trần Thủ Độ và Trần Thị Dung rất yêu nhau, nhưng khi Thái tử Sảm lánh nạn về ở nhờ nhà ông Trần Lý thấy Trần Thị Dung xinh đẹp, xin cưới làm vợ, Trần Thủ Độ vì sự nghiệp gây dựng cơ đồ nhà Trần, ông đã phải hy sinh mối tình đầu, để người yêu đi lấy Thái tử Sảm. Anh em nhà Trần đã mộ quân giúp triều Lý đánh dẹp các thế lực cát cứ, khôi phục lại cơ đồ nhà Lý.
Ông mặc dù ít học, nhưng là người mưu lược, quyết đoán, là người có công đầu xây dựng cơ nghiệp nhà Trần.
Cuối triều Lý, các vua ăn chơi sa đoạ, nhu nhược, kinh tế đất nước suy thoái, thiên tai mất mùa liên tiếp, đời sống của nhân dân vô cùng cực khổ, giặc dã nổi lên như ong. Ngoài biên ải, đế quốc Mông Cổ đã chiếm hầu hết châu Âu đến tận Hắc Hải và đang tung hoành đánh Kim, diệt Tây Hạ, chiếm Cao Ly, xâm chiếm nhà Tống, và sửa soạn xâm lược Đại Việt.
Trước tình hình nguy ngập đó, nếu cứ để triều đại nhà Lý yếu hèn như vậy, thì đất nước ta không thể tránh khỏi hoạ diệt vong.
Trần Thủ Độ đã ép vua Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con gái 7 tuổi là Lý Chiêu Hoàng. Chính việc ông thu xếp cho Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh là hết sức khôn ngoan và hợp với quy luật hưng vong, làm một cuộc đảo chính cung đình để thay đổi triều đại mà không xẩy ra đổ máu, còn tạo cho đất nước bước vào thế ổn định, để xây dựng lực lượng về kinh tế cũng như quân sự, chuẩn bị đương đầu với những thử thách vô cùng to lớn và cực kỳ nguy hiểm trong tương lai. Những điều đó chứng tỏ Trần Thủ Độ là một nhà chính trị, nhà chiến lược có tầm nhìn xa, thấy rộng.
Sau khi lên ngôi vua, Trần Thái Tông cho Trần Thủ Độ làm Thái sư nắm giữ mọi binh quyền. Chỉ trong một thời gian ngắn, ông đã thu phục được các thế lực đối địch, tổ chức lại bộ máy chính quyền từ trung ương đến cấp xã.
Ông là người trung thực, hết lòng vì việc nước, biết nghe lời nói thẳng. Bấy giờ có kẻ đàn hặc ông, vào gặp Thái Tông, khóc mà nói rằng: "Bệ hạ còn thơ ấu mà Trần Thủ Độ thì quyền át cả Vua, xã tắc rồi sẽ ra sao?".
Thái Tông lập tức đến dinh Trần Thủ Độ, đem theo cả người đàn hặc. Vua nói với Trần Thủ Độ:
"Trẫm biết Thượng phụ chỉ có tấm lòng son vì nước chứ không có bụng riêng nào. Vậy mà kẻ kia thấy ông nắm giữ mọi binh quyền, dám ngờ vực xằng bậy, tâu với Trẫm là Thượng phụ chuyên quyền có thể không hay cho xã tắc. Đó là lời nói có hại đến nghĩa vua tôi và tình cảm chú cháu giữa Thượng phụ và trẫm".
Trần Thủ Độ trầm ngâm suy nghĩ rồi tâu:
"Đúng như những lời hắn nói. Thật quả có chuyên quyền. Thế mới biết trăm người vâng dạ không bằng một người nói thẳng. Trong triều chỉ duy có người này ngay thẳng, bạo dạn, dám nói những điều người khác chỉ dám nghĩ. Một triều đại muốn thịnh trị là phải khuyến khích người nói thật".
Nói xong, xin phép Vua lấy tiền lụa thưởng cho người ấy.
Linh Từ Quốc Mẫu có lần ngồi kiệu đi qua thềm cấm, bị quân hiệu ngăn lại, về dinh khóc bảo Trần Thủ Độ: "Mụ này là vợ ông, mà bị bọn quân hiệu khinh nhờn đến thế!".
Trần Thủ Độ sai người đi bắt, người quân hiệu ấy nghĩ rằng chắc chắn là phải chết. Khi đến nơi, Trần Thủ Độ vặn hỏi trước mặt. Người quân hiệu ấy cứ theo sự thực trả lời. Trần Thủ Độ nói: "Ngươi ở chức thấp mà giữ được luật pháp, ta còn trách gì nữa". Liền lấy vàng lụa thưởng rồi cho về.
Trần Thủ Độ có lần đi duyệt định số hộ khẩu, Quốc Mẫu xin riêng cho một người cháu làm câu đương (chức dịch thu thuế ở xã). Khi xét duyệt ở xã ấy, gọi đến tên đó, đương sự mừng rỡ chạy đến. Trần Thủ Độ bảo hắn:
"Ngươi vì có công chúa xin cho được là câu đương, không thể ví như những câu đương khác được, phải chặt một ngón chân để phân biệt với người khác".
Người đó kêu van xin thôi, mãi mới tha cho. Từ đó, không ai dám đến xin vì việc riêng nữa.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ lần thứ nhất, Trần Thủ Độ đóng vai trò vô cùng quan trọng. Thế giặc rất mạnh, Vua phải bỏ kinh đô Thăng Long, lui quân về giữ sông Thiên Mạc (Mạn Trù, Hưng Yên). Vua ngự trên chiếc thuyền nhỏ đến thuyền Thái uý Trần Nhật Hiệu hỏi kế sách chống giặc. Nhật Hiệu cứ ngồi chứ không đứng dậy nổi, chỉ lấy ngón tay chấm nước viết lên mạn thuyền hai chữ "Nhập Tống". Vua hỏi quân Tinh Cương (do Nhật Hiệu chỉ huy) ở đâu? Nhật Hiệu trả lời: "Không gọi được chúng đến".
Vua lập tức rời thuyền đến hỏi Thái sư Trần Thủ Độ. Ông khảng khái trả lời: "Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo!".
Vào lúc gay go nhất của cuộc kháng chiến, ngàn cân treo sợi tóc, câu trả lời đanh thép của Trần Thủ Độ đã giữ vững được tinh thần quyết chiến của quân dân Đại Việt. Ông thực sự trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ lần thứ nhất và là người lãnh đạo cuộc phản công quyết liệt đánh vào Đông Bộ Đầu, buộc quân giặc phải rút chạy về nước, giữ vững được độc lập cho Tổ quốc.
Sử sách thời xưa thường chê Trần Thủ Độ là vô học, gian hùng như Tào Tháo, có công với triều Trần nhưng có tội với triều Lý như đã ép Lý Huệ Tông phải chết và giết chết các tôn tộc nhà Lý bằng cách bày mưu chôn sống họ, khi đang tế lễ ở nhà thờ họ Lý (Đông Ngàn, Bắc Ninh) - "Đại Việt sử ký toàn thư" tồn nghi là chưa chắc đã có thật.
Trần Thủ Độ mất tháng Giêng năm Giáp Tý (1264), thọ 71 tuổi, được truy tặng Thượng phụ Thái sư Trung Vũ Đại Vương. Thượng hoàng Trần Thái Tông có bài văn bia ở sinh từ để tỏ lòng đặc biệt quý mến ông. Nhiều nơi lập đền thờ để tưởng nhớ công lao của Trần Thủ Độ.
HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG TRẦN QUỐC TUẤN
Hơn bảy trăm năm trước, cả Á, Âu đang trong cơn kinh hoàng, khiếp đảm về cái hoạ Tác-ta (giặc Mông), khi chúng lướt trên vó ngựa viễn chinh tàn phá hết nước này sang nước khác. Từ Thái Bình Dương đến tận bên bờ Địa Trung Hải, khắp Á, Âu chưa có một danh tướng nào cản được. Giáo hoàng La Mã sợ hãi đến nỗi "... tuỷ khô, thân gầy, sức kiệt". Người Đức hằng ngày cầu nguyện: "Xin chúa cứu vớt chúng con khỏi cơn thịnh nộ Tác-ta!". Vó ngựa của chúng tới đâu cỏ cây đều không mọc được. Vậy mà ở miền Đông Nam Châu Á lũ giặc Tác-ta ấy đã phải kinh hồn, lạc phách trước ý chí chiến đấu và tài nghệ quân sự tuyệt vời của quân dân Đại Việt dưới sự chỉ huy thiên tài của Quốc Công Tiết chế, Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn.
Công lao to lớn của Người, ba lần tổng chỉ huy quân dân Đại Việt cản phá quân Nguyên - Mông hung bạo, đánh cho chúng thất điên bát đảo. Trấn Nam Vương Thoát Hoan phải chui vào ống đồng có người kéo qua biên ải mới thoát chết.
Với tài thao lược, trí dũng song toàn, luôn đặt lợi ích dân tộc và đất nước lên trên hết, Trần Hưng Đạo không chỉ sống mãi trong lòng mọi người dân đất Việt mà còn vang danh khắp năm châu bốn biển. Trần Quốc Tuấn (1228-1300) là một anh hùng kiệt xuất của dân tộc ta đồng thời là danh nhân quân sự cổ kim của thế giới.
Người sinh ngày 10-12-1228 (Mậu Tý) là con An Sinh Vương Trần Liễu (anh ruột Trần Thái Tông - Trần Cảnh).
Người dung mạo hùng vĩ, thông minh hơn người, xem rộng biết nhiều, đủ tài văn võ, chuyên tâm nghiên cứu lục thao tam lược của người xưa và dành cả tâm huyết và hiểu biết của mình để viết: Binh thư yếu lược, Vạn Kiếp tông bí truyền thư, Hịch tướng sĩ để dạy các tướng cầm quân đánh giặc, khích lệ lòng yêu nước của quân dân Đại Việt.
Người luôn luôn đặt lợi ích của dân tộc, của đất nước trên thù nhà, luôn luôn vun trồng cho khối đoàn kết giữa tôn tộc nhà Trần, để tạo cho thế nước ở đỉnh cao muôn trượng, đủ sức đè bẹp quân thù nguy hiểm.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ hai, thấy rõ nếu để ngành trưởng và ngành thứ xích mích nghi kỵ nhau thì chỉ có lợi cho kẻ thù. Người đã chủ động giao lưu hoà hiếu với Thái sư Trần Quang Khải, tạo nên sự đoàn kết nhất trí trong Vương triều Trần, bảo đảm đánh thắng quân thù.
Chuyện kể rằng: một hôm Hưng Đạo Vương ở bến Bình Than sai người mời Trần Quang Khải sang thuyền mình trò chuyện, chơi cờ rồi sai người nấu nước thơm tự mình cùng tắm rửa với Trần Quang Khải, từ đó vĩnh viễn xoá bỏ hiềm khích giữa hai chi họ (Quốc Tuấn là con Trần Liễu ngành trưởng, Quang Khải con Trần Cảnh ngành thứ).
Lần khác, người đem việc xích mích cũ ra dò ý các con. Con cả Quốc Hiến nói rằng:"Dẫu họ khác cũng còn không nên, huống chi là cùng một họ!" Người cho là phải.
Hôm khác, người lại hỏi người con thứ là Quốc Tảng. Quốc Tảng thưa rằng:
"Tống Thái Tổ vốn là một ông lão làm ruộng, đã thừa cơ dấy vận nên có được thiên hạ".
Người nổi giận, rút gươm kể tội:
"Tên loạn thần là từ đứa con bất hiếu mà ra!"
Rồi định giết Quốc Tảng. Quốc Hiến vội chạy đến khóc lóc xin tha tội cho em, người mới tha và dặn Quốc Hiến:
"Sau khi ta chết, đậy nắp quan tài vào đã rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng!"
Cả ba lần chống giặc Nguyên - Mông, các vua Trần đều giao cho Ông quyền Quốc Công Tiết chế (tức là Tổng tư lệnh quân đội) vì Ông biết dùng người tài, thương yêu binh lính, nên tướng sĩ ai cũng hết lòng tin yêu Ông. Đội quân phụ tử ấy đã trở thành đội quân bách chiến bách thắng.
Đầu năm 1285, quân Nguyên ào ạt tiến quân vào xâm lược nước ta, để bảo toàn lực lượng, Hưng Đạo Đại vương đã ra lệnh cho quân và dân làm "vườn không, nhà trống" rồi rời khỏi kinh đô Thăng Long. Thấy thế giặc quá mạnh. Bọn Văn Nghĩa hầu Trần Tú Viên, Văn Chiêu hầu Trần Lộng, Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc đem cả gia quyến sang hàng giặc. Trước tình hình gay cấn đó, Trần Nhân Tông triệu Trần Hưng Đạo đến và nói: "Kẻ thù rất mạnh, ta e rằng chiến tranh kéo dài sẽ làm đất nước tổn hại, hay là ta đầu hàng để cứu dân".Trần Hưng Đạo trả lời: "Nếu bệ hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu thần trước đã!" Bởi lẽ, một người rất tự tin như Trần Hưng Đạo đã nắm chắc phần thắng trong tay.
Mùa hè đến, quân Nguyên vừa mệt mỏi, vừa thiếu đói lại thêm dịch bệnh ốm đau, tinh thần thêm hoảng loạn. Trong khi đó quân đội Đại Việt vẫn bảo tồn được lực lượng lại tăng thêm sĩ khí, chứng minh phép "dĩ đoản, chế trường" của Hưng Đạo Vương thêm màu nhiệm.
Tháng 5 năm 1285, sau khi đẩy quân Nguyên - Mông vào thế trận đã bầy sẵn với toàn bộ sự nguy khốn nên chúng đang bị sa lầy, Trần Hưng Đạo mở cuộc phản công dữ dội toàn bộ hệ thống đồn trại trên sông Hồng, đích thân Người chỉ huy trận đánh lấy lại kinh đô Thăng Long, với những chiến thắng lẫy lừng ở Chương Dương, Hàm Tử, Tây Kết.... chỉ sau gần hai tháng phản công mãnh liệt, hơn nửa triệu quân xâm lược bị đuổi khỏi đất nước Đại Việt. Toa Đô bị chém đầu tại trận, chủ tướng Thoát Hoan phải chui vào ống đồng mới thoát chết.
Trong kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ ba (1288), Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn lại được Thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông sắc phong làm Quốc Công Tiết chế chỉ huy toàn bộ quân dân Đại Việt kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông và đã giành được thắng lợi vĩ đại mà tiêu biểu là chiến thắng Bạch Đằng (3-1288) đạp tan toàn bộ hơn 50 vạn quân xâm lược Nguyên - Mông, giữ vững được nền độc lập của Tổ quốc ta.
Mấy tháng trước khi Hưng Đạo Vương mất, vua Anh Tông đến thăm và hỏi:
- Nếu chẳng may Quốc Công mất, giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách giữ nước làm sao?
Người đã trăng trối những lời tâm huyết, sâu sắc, đúng cho muôn đời:
- "…Thời bình phải khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước…" (Đại Việt sử ký toàn thư. Tập II, trang 79).
Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn có tư tưởng quân sự tiến bộ. Người nói:
"Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước chung sức. Tóm lại giặc cậy trường trận, ta cậy đoản binh. Lấy đoản chế trường là việc thường của binh pháp. Nếu thấy quân giặc đến ào ạt, như lửa cháy, gió thổi thì dễ chế ngự. Nếu chúng đi chậm tựa tầm ăn, không cần của dân, không cần được chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến như đánh cờ vậy, tùy thời mà làm, có thu được binh lính như cha con một nhà thì mới dùng được, vả lại khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước…"
Hưng Đạo Đại Vương đã để lại cho dân tộc ta tư tưởng chính trị tiến bộ và tài thao lược bất hủ - để đời này sang đời khác, dân tộc ta đánh thắng các kẻ thù xâm lược mạnh hơn ta gấp bội.
Mùa thu tháng Tám, ngày 20 năm Canh Tý (1300) "Bình Bắc Đại nguyên soái" Hưng Đạo Đại Vương qua đời. Theo lời Người dặn, thi hài Người được hoả táng thu vào bình đồng và chôn trong vườn An Lạc, gần cánh rừng An Sinh, không xây lăng mộ, đất san phẳng, trồng cây như cũ. Vua truy tặng Thái sư Thượng Phụ Quốc Công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương. Nhân dân ta lập đền thờ ở nhiều nơi để tưởng nhớ công lao to lớn của Hưng Đạo Đại Vương.
THƯỢNG TƯỚNG THÁI SƯ TRẦN QUANG KHẢI
Trần Quang Khải (1240-1294) là con trai của vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh) và Hoàng hậu Thuận Thiên.
Năm 1258 được phong tước Chiêu Minh Đại vương, khi 18 tuổi. Năm 1274, Ông được giao chức Tướng quốc Thái uý. Năm 1282, dưới triều vua Trần Nhân Tông được cử làm Thượng tướng Thái sư, nắm toàn quyền nội chính.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai và lần thứ ba: Trần Quang Khải là vị tướng chủ chốt thứ hai, sau Quốc Công Tiết chế Trần Quốc Tuấn, lập nhiều chiến công lớn. Trần Quang Khải đã chỉ huy đánh tan quân Nguyên - Mông ở Chương Dương và những trận then chốt nhằm khôi phục kinh đô Thăng Long vào cuối tháng 5-1285.
Trận đại thắng Chương Dương đã mở đường cho quân ta tiến nhanh đến thắng lợi cuối cùng, quét sạch giặc Nguyên - Mông ra khỏi bờ cõi.
Kinh thành được thu phục, Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải hồ hởi đón vua Trần Nhân Tông cùng triều đình trở lại Thăng Long. Tiệc mừng chiến thắng vui đến nổ trời. Giữa cảnh tượng nức lòng người ấy, Trần Quang Khải cảm động đón lấy chén rượu mừng công còn đang sóng sánh của Nhà Vua ban tặng, và xin phép đọc bài thờ cảm khái:
Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu nỗ lực
Vạn cổ thử giang san!
Tạm dịch:
"Bến Chương Dương cướp giáo
Cửa Hàm Tử bắt thù
Thái bình nên gắng sức
Non nước này muôn thu!"
Trần Quang Khải là một anh tài kiệt xuất không những về chính tri, quân sự, mà còn là một nhà thơ.
Ông là tác giả tập thơ "Lạc Đạo". Ngày 03 tháng 7 năm 1294 (Giáp Ngọ) Thượng tướng Thái sư Chiêu Minh Đại Vương mất, thọ 54 tuổi.
CHIÊU VĂN ĐẠI VƯƠNG TRẦN NHẬT DUẬT
Trần Nhật Duật (1253-1330) con trai thứ tư của Trần Thái Tông và Hoàng hậu Thuận Thiên. Từ bé đã nổi tiếng là ông Hoàng hiếu học và "sớm bộ lộ thiên tài, ham thích hiểu biết về các tiếng nói và các giống người".
Do miệt mài rèn luyện mà Trần Nhật Duật nổi tiếng hiểu nhiều biết rộng, uy tín và tiếng tăm của ông vang dội ra cả nước ngoài. Học tiếng Tống và tiếng Chiêm Thành, ông chẳng những chỉ sử dụng thành thạo các ngôn ngữ ấy mà còn am hiểu cả phong tục, tập quán của họ. Đối với các dân tộc trong nước, ông không chỉ hiểu tiếng mà còn hiểu cả về người. Mới ngoài 20 tuổi, Trần Nhật Duật đã được vua Trần Nhân Tông giao đặc trách những công việc về các dân tộc có liên quan. Nhà vua thán phục, có lần nói đùa: "Chiêu Văn Vương có lẽ không phải người Việt mà là hậu thân của giống Phiên, Man". Tiếp xúc với các sứ thần triều Nguyên, có lần Trần Nhật Duật vui vẻ, tự nhiên trò chuyện suốt cả một ngày, khiến cho sứ Nguyên khăng khăng cho rằng Trần Nhật Duật là người Hán ở Chân Định (gần Bắc Kinh) sang làm quan bên Đại Việt.
Câu chuyện sau đây chứng tỏ Trần Nhật Duật chẳng những giỏi các thứ tiếng mà còn là một nhà dân tộc học lỗi lạc.
Ngày ấy, vua quan triều Trần được tin chúa đạo Đà Giang (Tây Bắc ngày nay) Trịnh Giác Mật nổi lên chống lại triều đình. Tin dữ đến trong lúc nhà Nguyên đang sửa soạn đại binh đánh Đại Việt, cần phải dẹp ngay mối loạn trong nước. Người đảm đương trọng trách cũng không ai hơn Trần Nhật Duật. Thế là vị Vương gia trẻ tuổi dưới cờ hiệu "Trấn thủ Đà Giang" lên đường.
Trịnh Giác Mật định ám hại viên tướng trẻ triều Trần nên sai người đưa thư dụ Trần Nhật Duật: "Giác Mật không dám trái lệnh triều đình. Nếu ân chủ một mình một ngựa đến, Giác Mật xin ra hàng ngay". Muốn thu phục được Giác Mật, Trần Nhật Duật mặc các tướng can ngăn, một mình một ngựa đến trại Giác Mật, chỉ mang theo mấy tiểu đồng cắp tráp theo hầu. Thản nhiên đi giữa lớp gươm giáo và đám lính sắc phục kỳ dị cố ý phô trương uy hiếp của Giác Mật, Trần Nhật Duật nói với chúa đạo bằng chính ngôn ngữ và theo đúng phong tục của dân tộc Đà Giang:
- Lũ tiểu đồng của ta khi đi đường thì nóng tai trái, vào đến đây thì nóng tai phải.
Từ Giác Mật đến các đầu mục đều sững sờ, kinh ngạc trước sự am hiểu tiếng nói và tục lệ của Trần Nhật Duật. Rồi mâm rượu được bưng lên. Chúa đạo nheo mắt thách thức, đưa tay mời. Chỉ có quả bầu cắt đôi sóng sánh rượu và đĩa thịt nai muối. Trần Nhật Duật không chút ngần ngại cầm thịt ăn vừa nhai vừa ngửa mặt, cầm bầu rượu từ từ dốc vào lỗ mũi hết sức thành thạo.
Trịnh Giác Mật kinh ngạc thốt lên: "Chiêu Văn Vương là anh em với ta".
Trần Nhật Duật bấy giờ mới từ tốn nói: "Chúng ta xưa nay vẫn là anh em", rồi gọi tiểu đồng đến gần, tự tay mở tráp, lấy ra những chiếc vòng bạc sáng lóng lánh, trao tận tay cho từng đầu mục đạo Đà Giang, và chọn riêng cho chúa đạo Đà Giang một chiếc vòng lớn, lồng nguyên một chiếc vuốt cọp!
Những người cầm đầu đạo Đà Giang chỉ còn biết hoan hỉ đón nhận tặng phẩm kết nghĩa theo đúng tục lệ của họ. Chúa đạo Đà Giang đã quy thuận. Sức mạnh của dân tộc được nhân lên gấp bội.
Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ hai và lần thứ ba, Trần Nhật Duật đều lập được nhiều chiến công hiển hách, đặc biệt là trận Hàm Tử.
Năm 1330 (Canh Ngọ) Tá Thánh Thái sư Chiêu Văn Đại Vương Trần Nhật Duật mất, thọ 77 tuổi.
NHÂN HUỆ VƯƠNG TRẦN KHÁNH DƯ
Trần Khánh Dư là con Thượng tướng Trần Phó Duyệt, nhân có công đánh giặc Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ nhất, được vua Trần Thái Tông nhận làm con nuôi và phong đến chức Phiêu kỵ Tướng quân rồi đến chức Thượng Vị hầu. Sau Trần Khánh Dư mắc tội, bị triều đình giáng xuống làm dân thường phải đi bán than để kiếm sống ở Chí Linh.
Trước cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ 2, ông được vua Trần Thánh Tông phục chức, được phong là Phó đô tướng quân.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ 3, Trần Khánh Dư chịu trách nhiệm giữ vùng bờ biển, không chặn nổi thuỷ quân giặc, để chúng qua được cửa An Bang tiến về Vạn Kiếp, Thượng hoàng được tin, sai Trung sứ xiềng Khánh Dư giải về kinh trị tội. Trần Khánh Dư xin với Trung sứ: "Lấy quân pháp mà xử, tôi xin cam chịu tội, nhưng xin khất hai ba ngày để mưu lập công rồi về chịu búa rìu cũng chưa muộn".
Trung sứ theo lời.
Trần Khánh Dư liệu biết quân giặc đi qua, thuyền vận tải chở rất nặng tất theo sau, nên thu thập tàn quân đón chúng. Chẳng bao lâu thuyền vận tải quả nhiên đến, ông đổ quân ra đánh, lấy được lương thực, khí giới và bắt được tù binh nhiều không kể xiết, còn bao nhiêu thì đánh đắm xuống biển. Tướng giặc Trương Văn Hổ phải xuống chiếc thuyền con chạy trốn về đảo Hải Nam mới thoát chết.
Ông được phong tước Nhân Huệ vương, mất năm 1329.
BẢO NGHĨA VƯƠNG TRẦN BÌNH TRỌNG
Trần Bình Trọng vốn là hậu duệ của vua Lê Đại Hành, cha ông làm quan dưới triều vua Trần Thái Tông, có nhiều công lao được nhà vua ban quốc tính (họ Trần).
Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ 2, ông đánh nhau với giặc ở bãi Đà Mạc (tức Thiên Mạc, nay là bãi Mạn Trù). Ông chiến đấu rất ngoan cường nhưng giặc quá đông bao vây vòng trong vòng ngoài, cuối cùng chúng bắt được ông.
Khi bị bắt, ông không chịu ăn, giặc hỏi việc nước, ông không trả lời, cuối cùng chúng dụ dỗ: "Có muốn làm vương đất Bắc không?"
Ông thét to: "Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc" nên bị chúng giết.
Vua Trần Nhân Tông truy phong ông là Bảo Nghĩa Vương.
HOÀI VĂN HẦU TRẦN QUỐC TOẢN
Trần Quốc Toản là con Trung Thành Vương, cháu nội của Nhân Đạo Vương được phong là Hoài Văn Hầu, mới 15 tuổi, vì không được dự hội nghị quân sự ở Bình Than bàn kế chống giặc Nguyên, căm thù giặc tay cầm quả cam bóp vỡ lúc nào không biết.
Ra về, Trần Quốc Toản huy động hơn nghìn gia nô và trai tráng trong vùng mua sắm vũ khí, đóng chiến thuyền để đánh giặc, may lá cờ đại, thêu sáu chữ vàng "phá cường địch, báo hoàng ân" (phá giặc mạnh, báo ơn Vua).
Trong cuộc chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ hai, khi đối trận với giặc, Trần Quốc Toản tự mình xông lên trước quân sĩ, giặc trông thấy phải lui tránh, không dám đối địch. Trần Quốc Toản đã góp vào chiến công to lớn ở Tây Kết và giải phóng kinh thành Thăng Long.
Trong trận chặn đánh giặc rút chạy trên sông Như Nguyệt, Trần Quốc Toản đã anh dũng hy sinh, góp phần xứng đáng vào trận đại thắng Vạn Kiếp, quét sạch giặc Nguyên - Mông ra khỏi đất nước Đại Việt.
Vua Trần Nhân Tông vô cùng thương tiếc, đích thân làm văn tế truy tặng tước Hoài Văn Vương.
ĐIỆN SÚY THƯỢNG TƯỚNG QUÂN PHẠM NGŨ LÃO
Phạm Ngũ Lão, người làng Phù Ủng, Đường Hào (nay là Ân Thi, Hưng Yên) sinh năm Ất Mão (1255), nhà nghèo, bố chết sớm, phụng dưỡng mẹ già rất hiếu thảo, là người thông minh lại ham đọc sách và rèn luyện võ nghệ nên làu thông văn võ.
Một lần Hưng Đạo Vương đưa quân đi tập trận rồi tắt đường qua làng Phù Ủng để về Thăng Long. Chợt đoàn quân dừng lại, tướng tiên phong Nguyễn Chế Nghĩa quay lại, trước mặt Hưng Đạo Vương, thưa:
- Trình Đức Ông, dân chúng đều dẹp sang hai bên nhường đường cho quân trẩy qua, chỉ riêng có một người vẫn ngồi xếp bằng tròn trên đường đan sọt, quân lính quát thét không tránh, liền đâm mũi giáo vào đùi mà người đó vẫn ngồi yên.
Hưng Đạo Vương thấy sự lạ liền xuống voi đến trước mặt chàng trai. Vương thấy chàng trai chừng 20 tuổi, đầu để trần, mặc áo rách nhưng dung mạo rất khôi ngô, tuấn tú, một bên đùi bị giáo đâm nhưng vẫn ngồi xếp bằng tròn đan sọt, mặc cho máu chảy đầm đìa, liền cúi xuống hỏi:
- Nhà ngươi quê ở đâu, bị giáo đâm như thế sao không biết đau mà vẫn ngồi như vậy?
Chàng trai đó ngước nhìn lên thấy một vị tướng quân đã lớn tuổi, cằm vuông, mắt sáng, chòm râu đen nhánh đều đặn cân đối, nét mặt hồng hào, dáng uy nghi quắc thước mà vẫn lộ rõ vẻ nhân từ, liền kính cẩn thưa:
- Bẩm Đức Ông, tôi họ Phạm, tên Ngũ Lão, quê ở làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, châu Thượng Hồng. Nhà nghèo, mẹ già yếu, ruộng đất không có, phải làm nghề đan sọt nuôi mẹ. Tôi mải nghĩ mấy câu trong binh thư nên không biết có quân của Đức Ông trẩy qua, làm trở ngại việc quân, xin Đức Ông xá tội cho.
Hưng Đạo Vương thấy thần sắc, khẩu khí của Phạm Ngũ Lão xứng đáng là tướng cầm quân liền sai người nhổ ngọn giáo vẫn cắm ở đùi Phạm Ngũ Lão, sai người lấy thuốc dấu đắp vết thương rồi hỏi:
- Hẳn tráng sĩ biết quân Nguyên - Mông đã chinh phục hàng chục nước ở Đông, Tây, Nhà Tống cũng đã bị đẩy xuống phía Nam, đang có nguy cơ bị tiêu diệt. Chúng đã bị nhân dân Đại Việt ta đánh bại trong cuộc xâm lược lần thứ nhất, nay chúng đang gấp rút chuẩn bị để xâm lược nước ta một lần nữa. Hiện nay, trai tráng cả nước đang nô nức sắm sửa vũ khí, luyện tập võ nghệ, ta cũng đã soạn cuốn Binh thư yếu lược, hẳn tráng sĩ rõ chứ?
Phạm Ngũ Lão thưa:
- Bẩm Đức Ông, kẻ thứ dân này tuy ở nơi thôn dã, xa cách thị thành, song cũng biết giặc Nguyên - Mông đã động binh, rắp tâm xâm lược nước ta nên đã cùng trai tráng trong vùng luyện tập võ nghệ, chờ thời cơ đầu quân giết giặc, đền nợ nước...
Hưng Đạo Vương hài lòng, gật đầu khen:
- Tráng sĩ có chí lớn như vậy ta rất mừng, hiện ta đang chiêu mộ quân lính, kén chọn tướng tài để cầm quân giúp nước. Ta muốn đưa ngươi về trang ấp Vạn Kiếp giúp ta huấn luyện quân sĩ, tráng sĩ có vui lòng chăng?
Phạm Ngũ Lão chưa kịp trả lời thì Đức Ông nhìn thấy trong chiếc sọt đan dở có quyển sách liền hỏi:
- Tráng sĩ đọc sách trong khi đang đan sọt hay sao, cho ta xem qua được không?
Phạm Ngũ Lão ngập ngừng thưa:
- Bẩm Đức Ông, quyển sách này tôi chỉ ghi lại đôi điều cảm nghĩ khi đọc sách của người xưa.
Nói rồi, kính cẩn dâng sách lên. Đức Ông nhìn thấy trang đầu ghi dòng chữ: "Dùng binh cốt chọn quân tinh nhuệ, không cần nhiều". Trang tiếp theo có bài thơ:
"Hoành giáo giang sơn cáp kỷ thu
Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu,
Namnhi vi liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu"
Tạm dịch:
"Vung giáo non sông trải mấy thu
Ba quân dũng mãnh át sao Ngưu
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu"
Xem xong, Vương càng hài lòng nhắc lại:
- Tráng sĩ tỏ ra là người thao lược, ta rất quý trọng. Ta muốn đưa về trang ấp Vạn Kiếp giúp ta huấn luyện quân sĩ, tráng sĩ có vui lòng không?
Ngũ Lão thưa:
- Bẩm Đức Ông, tôi rất muốn đầu quân, nhưng vì còn vướng mẹ già, xin phép Đức Ông cho tôi về thưa đã...
Hưng Đạo Vương xúc động trước tấm lòng hiếu thảo của Ngũ Lão liền truyền lấy mấy tấm lụa và hai mươi nén bạc trao cho Ngũ Lão, nói:
- Ta tin một người mẹ đã sinh ra người con như tráng sĩ ắt vui lòng cho con đầu quân giết giặc. Ta có chút quà nhỏ gửi biếu bà mẹ, tráng sĩ đến sớm với ta.
Phạm Ngũ Lão xúc động, vái lạy Đức Ông và xin được về thưa với mẹ rồi tới quân doanh ở Vạn Kiếp trình diện.
Nửa tháng sau, khi đã trình với mẹ và điều trị lành vết thương, được mẹ và dân làng tiễn đưa Phạm Ngũ Lão lên đường đầu quân giết giặc.
Phạm Ngũ Lão đến trang ấp Vạn Kiếp ra mắt Đức Ông, được Quốc Công niềm nở đón tiếp. Biết tài của Phạm Ngũ Lão, Vương giao cho cùng Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng huấn luyện quân sĩ.
Sau một thời gian luyện quân, Hưng Đạo Vương tiến cử Phạm Ngũ Lão với nhà Vua cho coi quân Cấm vệ là đội quân tin cậy, làm nhiệm vụ bảo vệ Vua và Cấm thành.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ hai và thứ ba, Phạm Ngũ Lão lập được nhiều chiến công to lớn ở Tây Kết, Vạn Kiếp, Bạch Đằng Giang và được phong đến chức Kim Nghiêu đại tướng quân.
Ông được Hưng Đạo Vương rất yêu mến, đem con gái nuôi là Anh Nguyên Quận chúa gả cho.
Phạm Ngũ Lão phục vụ trải 3 đời Vua nhà Trần, được phong đến chức Điện suý thượng tướng quân.
Ngày 01 tháng 11 năm Canh Thân (1320) Phạm Ngũ Lão mất tại phủ đệ Vua ban ở vườn cam trong thành, thọ 66 tuổi. Vua nghỉ chầu 05 ngày, đó là ân điển đặc biệt.
Khi ông mất, dân làng Phù Ủng lập đền thờ ngay trên nền đất nhà cũ ở phía tây làng.
Nhiều nơi trong nước lập đền thờ Phạm Ngũ Lão.
TƯỚNG QUÂN NGUYỄN CHẾ NGHĨA
Nguyễn Chế Nghĩa, người làng Cối Xuyên, Gia Lộc, Hải Dương, có tài võ nghệ, lại làu thông binh pháp.
Được Hưng Đạo Vương thu nhận làm gia tướng. Nguyễn Chế Nghĩa lập nhiều công lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ hai và thứ ba, ông đã giết được hai tướng giặc là Trương Ngọc và A-bát-xích.
Nguyễn Chế Nghĩa được vua Trần Anh Tông rất yêu mến, gả con gái Ngọc Hoa công chúa cho và được phong là An Nghĩa đại vương.
Khi ông mất được làng Kiêu Kỵ (Gia Lâm - Hà Nội) thờ làm Thành hoàng.
TRƯỞNG SỬ QUAN LÊ VĂN HƯU
Tháng Giêng năm Nhâm Thân (1272), dưới triều Vua Trần Nhân Tông, Chưởng sử quan Lê Văn Hưu đã hiến dâng bộ quốc sử lấy tên là Đại Việt sử ký. Đây là bộ sử đầu tiên của nước Đại Việt ta gồm 30 quyển.
Lê Văn Hưu sinh năm Canh Dần (1230), quê hương nay là làng Rị, xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa, Thanh Hóa. Là người chép sử đầu tiên của dân tộc ta, ông đã nổi tiếng thần đồng khi còn là cậu học trò nhỏ ở giáp Phủ Lý, huyện Đông Sơn, Phủ Lộ, Thanh Hóa.
Truyện kể rằng, hồi Lê Văn Hưu là học trò thầy họ Nguyễn ở làng Cổ Bôn, hằng ngày đi học thường dừng chân bên quán thợ rèn ở đầu làng để xem.
Một hôm, Lê Văn Hưu xách túi đứng xem bác thợ rèn dùi xiên tò mò hỏi:
- Bác này! Ông tổ nghề rèn của ta là ai đó?
Thấy thằng bé mới lên mười tuổi mà đã biết hỏi vặn vẹo, bác thợ rèn liền ra câu đối, đối được thì được thưởng, không đối được thì phải ở đây quai búa, khi nào đối được mới cho về!
Bác thợ rèn chỉ vào lò rèn đọc:
- “Than trong lò, sắt trong lò, lửa trong lò, thổi phì phò, rèn nên dùi sắt”. Đối đi!
Lê Văn Hưu cười:
- Chả khó mấy! - Rồi vỗ vào túi đối ngay:
- “Nghiên ở túi, bút ở túi, giấy ở túi, viết lúi húi, giật lấy khôi nguyên!”.
Bác thợ rèn trợn tròn mắt khen:
- Ta xin thua rồi đó! - Bác thưởng cho Lê Văn Hưu 30 đồng tiền để mua giấy bút.
Quả nhiên, qua dùi mài kinh sử, năm Đinh Mùi (1247), Lê Văn Hưu đỗ Bảng nhãn vào đúng lúc 17 tuổi đời. Ông làm quan dưới ba triều Vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông.
Sau khi đỗ Bảng nhãn, Lê Văn Hưu được triều đình phong chức Hàn lâm viện học sĩ, lại được Vua Trần Thái Tông ủy thác cho việc dạy dỗ Hoàng tử Trần Quang Khải và năm 1262 được Thượng hoàng Thái Tông giao cho biên soạn bộ quốc sử đầu tiên của đất nước ta.
Năm 1275, ông được giữ chức Binh Bộ Thượng thư. Ông mất năm 1322, thọ 93 tuổi.
NHÀ GIÁO DỤC XUẤT SẮC CHU VĂN AN
Chu Văn An hoặc Chu An (1292-1370), là nhà sư phạm, nhà nho tài đức đời Trần, quê làng Văn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội).
Đậu Thái học sinh (tiến sĩ) nhưng không ra làm quan, mở trường dạy học tại quê, nhằm truyền bá đạo Nho và bài xích dị đoan hủ tục. Học trò của ông rất đông, có tới mấy ngàn người. Học trò ông nhiều người thành đạt như Lê Quát, Phạm Sư Mạnh (là đến Nhập nội hành khiển). Tiếng tăm, uy tín của ông ngày càng lớn. Vua Trần Minh Tông mời ông đến Thăng Long giữ chức Tư nghiệp Trường Quốc Tử Giám và dạy thêm Hoàng tử, thời gian này ông biên soạn bộ Tứ thư thuyết ước gồm 10 quyển, thuyết minh tóm tắt 4 tác phẩm lớn của Nho giáo để tiện sử dụng.
Đến đời Trần Dụ Tông (1341-1369), Vua thì rượu chè, chơi bời quá độ, khiến cho triều đình đổ nát, giặc giã nổi lên như ong, nhân dân cực khổ trăm bề. Chu Văn An dâng sớ "Thất trảm" xin vua chém đầu 7 tên gian thần, nhưng Vua không nghe, ông liền treo ấn từ quan về ở ẩn tại núi Phượng Hoàng, làng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương lấy biệt hiệu là Tiều Ẩn, sáng tác thơ ca ngợi vẻ đẹp, sức sống của thiên nhiên, bày tỏ khí tiết thanh cao cũng như tình cảm gắn bó giữa tạo vật với con người. Năm 1370, sau khi khủng hoảng chính trị trong chiều đình nhà Trần, Trần Nghệ Tông lên ngôi vua, Chu Văn An ra kinh đô bệ kiến vua mới, nhưng không nhận chức tước gì, rồi trở về núi cũ. Sau khi mất được Nhà Vua truy tặng tước Văn Chinh công và ban tên thụy là Khang Tiết, được đưa vào thờ tại văn miếu, sĩ phi các đời sau đều xem ông như một người thầy tiền bối đáng kính trọng.
Hầu hết tác phẩm của Chu Văn An đều không còn nữa. Mười một bài thơ chữ Hán còn lại được in trong Toàn Việt thi lục. Thơ ông "rất trong sáng, u nhàng" dùng nhiều hình ảnh sáng tạo, nhất là trong thơ tả cảnh.
XV.NHÀ HỒ (1400-1407) QUỐC HIỆU ĐẠI NGU
KINH ĐÔ TÂY ĐÔ Ở THANH HÓA
1. Hồ Quý Ly (Lý Nguyên) (1400):
Niên hiệu: Thánh Nguyên (1400)
Hồ Quý Ly tên tự là Thánh Nguyên, là hậu duệ Trạng nguyên Hồ Hưng Dật, vốn gốc thuộc tộc Việt ở Chiết Giang (Trung Quốc), đời Hậu Hán (thời Ngũ Qúy) di cư sang Giao Châu, làm hứ sử Diễn Châu. Sau định cư ở hương Bào Đột (Quỳnh Lưu, Nghệ An) làm trại chủ. Đén triều Lý (có người lấy công chúa Nguyệt Đích), sinh ra công chúa Nguyệt Đoan, đến đời cháu thứ 12 là Hồ Liêm dời đến ở Hưng Đại Lại (Yên Đinh, Thanh Hóa) làm con nuôi Tuyên úy Lê Huấn, từ đấy lấy họ Lê làm họ mình. Quý Ly là cháu bốn dời của Lê Huấn (gọi là Lê Quý Ly), Hồ Quý Ly lấy công chúa Huy Ninh, con gái Trần Minh Tông.
Hồ Quý Ly dưới triều Trần Nghệ Tông được thăng tiến rất nhanh từ chức Chi hậu tứ cục chánh chưởng thăng lên Khu mật viện đại sứ rồi lên Tiểu tư không, khiêm Khu mật viện đại sứ liên tiếp gia phong đến chức Phụ chính thái sư nhiếp chính Khâm Đức Hưng Liệt Đại Vương, Quốc Tổ Chương Hoàng rồi cướp ngôi nhà Trần.
Lê Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, tự lập làm vua, đặt niên hiệu là Thánh Nguyên, đặt quốc hiệu là Đại Ngu đóng đô ở Tây Đô (Vĩnh Lộc - Thanh Hóa), trở lại là Hồ Quý Ly.
Hồ Quý Ly là nhân vật thông minh lỗi lạc, ông đã đề ra nhiều cải cách táo bạo. Ông ra sách Minh Đạo để phê phán hệ tư tưởng Tống Nho, phục vụ cho những cải cách mới như hạn điền, hạn nô, sa thải tăng lữ để hạn chế phong kiến quý tộc, đồng thời tăng thêm lực lượng lao động xã hội góp phần giải phóng sức sản xuất, sức lao động.
Nhà Hồ cho đo đạc lại ruộng đất, điều tra dân số để nắm chắc tài sản và sức lao động toàn xã hội, phát hành tiền giấy, giải quyết khó khăn về tài chính quốc gia và thuận tiện cho việc lưu thông hàng hoá.
Cải cách chế độ thi cử, mở mang việc giáo dục, để đào tạo nhân tài, lập Quảng tế thự để chữa bệnh cho nhân dân đều là những cải cách tiến bộ.
Nhà Hồ định ra hình luật để củng cố, tăng cường bộ máy và quyền lực của triều đình Trung ương, quan tâm đến giao thông thuỷ lợi, đào sông, đắp đường thiên lý, đặt phố xá, đặt trạm công văn.
Về quân sự thì tăng cường quân đội thường trực, xây dựng các tuyến phòng thủ, lập xưởng đúc binh khí kỹ thuật để chống giặc phương Bắc.
Các cải cách của Hồ Quý Ly có tính chất toàn diện, có những cải cách đi trước thời đại, giá trị thực tiễn của nó đến nay vẫn còn hấp dẫn, nhiều nhà kinh tế nước ngoài đã ca ngợi Hồ Quý Ly là một nhà cải cách kinh tế lớn. Nhưng Hồ Quý Ly mắc tội giết vua Thiếu Đế cùng tôn tộc và quan lại nhà Trần, kể cả Tướng quân ta Khát Chân. Do vậy bị nhân dân oán hận, nên khi quân Minh sang xâm lược nước ta, Hồ Qúy Ly đã không tập hợp được lực lượng toàn dân đánh giặc, bố con Hồ Qúy Ly bị quân Minh bắt đem về Trung Quốc.
2. Hồ Hán Thương (1401-1407)
Niên hiệu: - Thiệu Thành (1401-1402)
- Khai Đại 91403-1407)
Bắt chước nhà Trần, ngày 12-01-1401, Hồ Qúy Ly nhường ngôi cho con thứ là Hồ Hán Thương, còn mình thì tự xưng là Thái Thượng hoàng cùng coi chính sự.
Hồ Hán Thương là con công chúa Huy Ninh, cháu ngoại của vua Trần Minh Tông.
Hồ Qúy Ly nhường ngôi cho Hồ Hán Thương, nhưng vẫn tự quyết đoán mọi việc.
Nhà Minh lấy cớ Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, đem quân sang đánh chiếm nước ta.
Tháng 9-1406, Nhà Minh sai Tân Thành hầu Trương Phụ đem 40 vạn quân đánh vào cửa ải Pha Lũy (tức là Hữu Nghị Quan ngày nay).
Nhà Minh còn sai Tây Bình hầu Mộc Thạnh cũng đem 40 vạn quân đánh vào cửa ải Phú Lệnh (gần thị xã Hà Giang ngày nay).
Tháng 12, quân Minh đã chiếm được Việt Trì. Nhà Hồ chống giữ không nổi 80 vạn quân Minh.
Ngày 20 tháng 01 năm 1407, quân Minh hạ thành Đa Bang (Ba Vì), bố con Hồ Quý Ly bỏ chạy vào Thanh Hoá, đến ngày 17-6-1407, quân Minh bắt được cha con Hồ Qúy Ly. Thế là đất nước ta bị nhà Minh đô hộ với một chính sự vô cùng hà khắc. Chúng vơ vét của cải, hãm hiếp đàn bà, con gái, giết đàn ông và còn thiến hoạn nhiều con trai nhỏ tuổi để mong đồng hoá dân ta.
XVI. HẬU TRẦN (1407-1413)
1. Giản Định Đế (Trần Ngỗi) (1407-1409):
Niên hiệu: Hưng Khánh (1407-1409)
Trần Ngỗi là con thứ của vua Trần Nghệ Tông, cuối thời Hồ đã khởi binh khôi phục nhà Trần, ở ngôi được 2 năm. Vua không có tài dẹp loạn, lại nghe gian thần giết oan 2 vị trung thần là Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân, nên tự chuốc lấy hoạ diệt vong.
2. Trùng Quang Đế (Trần Quý Khoáng) (1409-1413)
Niên hiệu: Trùng Quang (1409-1413)
Trần Quý Khoáng là con thứ của Mẫn Vương Ngạc, cháu nội của vua Trần Nghệ Tông, gọi Giản Định Đế bằng chú ruột.
Đặng Dung là con Quốc Công Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Dị là con Tham mưu quân sự Nguyễn Cảnh Chân, căm giận vì cha bị giết oan, mới đem quân Thuận Hoá về Thanh Hoá đón Trần Quý Khoáng đến Nghệ An làm vua là Trùng Quang Đế để lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Minh.
Tháng 3-1413, vua Trùng Quang sai Nguyễn Biểu sang điều đình với quân Minh. Trương Phụ muốn uy hiếp tinh thần của Nguyễn Biểu, đã sai quân dọn một bữa tiệc đặc biệt, bằng cách cho bê một mâm cỗ đặt trên một chiếc sập gụ mầu nâu sẫm, cạnh mâm là một nậm rượu và cái chén đặt ngay ngắn trên khay khảm xà cừ.
Người lính hầu nhấc chiếc lồng bàn ra thì lúc đó Nguyễn Biểu sửng sốt: một mâm cỗ quái đản và ghê tởm: "một chiếc đầu người của một người dân lành bất hạnh nào đó, đã được luộc chín".
Không chút do dự, Nguyễn Biểu ngồi xuống sập, ung dung rót rượu. Sau tợp rượu khai vị, Nguyễn Biểu cầm đũa ngà moi đôi mắt chấm vào muối nuốt một cách ngon lành. Sau khi cạn chén rượu, Nguyễn Biểu cười kiêu hãnh nói một mình như nhắn bảo cho Trương Phụ biết:
"Không mấy khi người Nam được ăn đầu người Bắc", rồi Nguyễn Biểu rung đùi ngâm bài thơ ứng khẩu:
Ngọc thiệt trân tu đã đủ mùi,
Gia hào thêm có cỗ đầu người
Nem công chả phượng còn chưa béo,
Thịt gụ gan lân cũng kém tươi,
Cá lối lộc minh so cũng một
Vật bày thỏ thú bội hơn mười,
Kia kìa ngon ngọt tày vai lợn,
Tráng sĩ như phàn tiếng để đời.
Đọc xong bài thơ, Nguyễn Biểu ung dung buông đũa đứng dậy. Khi nghe quân hầu thuật lại về Nguyễn Biểu với mâm cỗ đầu người, Trương Phụ tròn xoe mắt kinh ngạc. Để tỏ ra mình cũng biết trọng những kẻ có tài năng, khí phách, Trương Phụ lấy lễ tiếp đãi Nguyễn Biểu, rồi tiễn chân sứ giả ra về.
Khi Nguyễn Biểu ra về rồi, tên Việt gian Phan Liêu ton hót:
"Ngài muốn lấy nước Nam mà tha người ấy về thì làm sao mà xong việc được".
Trương Phụ nghe ra, bèn hạ lệnh cho quân lính đuổi theo đoàn sứ giả bắt Nguyễn Biểu trở lại.
Quân giặc bắt Nguyễn Biểu quỳ lạy Trương Phụ. Nguyễn Biểu hất tay bước tới chỉ thẳng vào mặt Trương Phụ quát mắng:
"Trong bụng toan tính việc đánh chiếm nước người ta, ngoài mặt lại phô trương là quân nhân nghĩa, trước nói là lập con cháu họ Trần, bây giờ lại đặt quận, huyện, không những cướp bóc của cải lại còn giết hại nhân dân, bọn mày thật là lũ giặc bạo ngược".
Thấy không khuất phục được Nguyễn Biểu, Trương Phụ ra lệnh giết sứ giả.
Cuối năm Quý Tỵ (1413), do quân ta ít không thể chống lại được với quân Minh, Trương Phụ, Mộc Thạch cho quân bao vây đã bắt được Trùng Quang Đế, Đặng Dung, Nguyễn Suý giải về Trung Quốc, trên đường đi vua tôi nhà Hậu Trần đã nhảy xuống biển tự tử để tỏ rõ khí phách. Nhà Hậu Trần chấm dứt từ đó.
XII.THỜI KỲ ĐẤU TRANH CHỐNG NHÀ MINH
THỐNG TRỊ (1414-1427)
Quân Minh chiếm được nước ta, chúng chia thành quận, huyện để cai trị. Chúng bắt nhân dân ta làm tôi tớ, thuế má lao dịch nặng nề, cuộc sống vô cùng cực khổ.
Ngay từ năm 1407, sau khi diệt xong nhà Hồ, nhà Minh đã đổi nước ta làm quận Giao Chỉ, dưới quận chúng chia nước ta thành 15 phủ gồm 36 châu, 181 huyện, nhưng thực tế phải đến năm 1414, nhà Minh mới thiết lập được hệ thống chính quyền các cấp phủ, châu, huyện ở nước ta.
Nhà Minh ra lệnh tước đoạt mọ thứ vũ khí trong tay nhân dân ta. Ai chế tạo, cất giấu chiến thuyền, vũ khí, dù là thô sơ, đều bị ghép vào tội "phản nghịch". Mỗi khi, nhân dân ta phản kháng hoặc vùng lên khởi nghĩa thì lập tức chúng dùng vũ lực đàn áp khốc liệt với nhiều thủ đoạn man rợ. Quân giặc "đi đến đâu chém giết thả cửa, hoặc chất thây người làm núi, hoặc rút ruột người quấn vào cây, hoặc rán thịt người lấy mỡ, hoặc làm nhục hình bào lạc để mua vui, thậm chí có kẻ theo lệnh giặc, mổ bụng người có thai, cắt tay của mẹ và con để dâng cho giặc".
Nhà Minh đẩy mạnh việc vơ vét của cải và bóc lột nhân dân ta một cách tham tàn.
Mùa hạ năm 1408, sau hơn một năm xâm lược và cướp bóc, số "chiến lợi phẩm" mà Trương Phụ tâu lên vua Minh gồm:
- 235.000 con voi, ngựa, trâu, bò.
- 13.600.000 thạch thóc.
- 8.670 chiếc thuyền.
- 2.539.800 đồ quân khí.
Năm 1417, nhà Minh rời đô lên Bắc Kinh và trong nhiều năm liền, nhà Minh bắt nhiều dân phu và thợ thủ công lao dịch trong công trình này. Người thiết kế công trình xây dựng đại quy mô đó là Nguyễn An, một kiến trúc sư tài giỏi nước ta bị quân Minh bắt đem về Trung Quốc. Nguyễn An cũng như nhiều người có tài năng khác đều bị chúng cưỡng bức biến thành hoạn quan, suốt đời làm nô lệ cho chúng.
Thực hiện chủ trương hủy diệt văn hóa Đại Việt của nhà Minh, phần lớn các sách điển chương, luật lệ, cùng những tác phẩm lịch sử, văn học, địa lý, quân sự… của nước ta đã bị quân giặc cướp đoạt và tiêu hủy.
Cuối năm 1426, Vương Thông đã cho phá chuông Quy Điền và vạc Phổ Minh để lấy đồng đúc vũ khí đàn áp nhân dân ta.
Chuông Quy Điền (chùa Một Cột - Hà Nội); vạc Phổ Minh (Nam Định) cùng với đỉnh tháp Báo Thiên (Hà Nội) và tượng phật của chùa Quỳnh Lâm (Quảng Ninh) là bốn công trình tiêu biểu của nghệ thuật đúc đồng thời Lý Trần, đã nổi tiếng là "An Nam tứ đại khí". Triều đình nhà Minh và quân xâm lược Minh đã phạm nhiều tội ác phá hoại các di sản vưn hóa dân tộc của Đại Việt ta.
Khởi nghĩa Lam Sơn
Ngày Mậu Thân, tháng Giêng năm Mậu Tuất (7-02-1418), Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa ở hương Lam Sơn, huyện Lương Giang, trấn Thanh Hoá, có quân sư Nguyễn Trãi dâng "Bình Ngô sách" nhằm thu phục lòng người; Trần Nguyên Hãn (cháu nội của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán) và nhiều nhân tài, hào kiệt các nơi tham gia.
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là một cuộc kháng chiến trường kỳ, kéo dài suốt 10 năm. Có lúc nghĩa quân bị bao vây, quân tướng chỉ còn mấy trăm người không có gì ăn phải đào củ chuối và giết ngựa cho quân sĩ ăn. Lê Lai đã cải trang giống Lê Lợi "liều mình cứu chúa" để cho Lê Lợi thoát khỏi vòng vây tiếp tục lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Minh. Theo kế sách của tướng quân Nguyễn Chích, Lê Lợi đã đưa quân vào Nghệ An, nơi đất rộng người đông, nhân dân có truyền thống yêu nước và bất khuất từ ngàn xưa, nên đã đưa nghĩa quân Lam Sơn bước vào thời kỳ phát triển mới.
Cuộc kháng chiến trường kỳ đó ban đầu là một cuộc chiến tranh nhân dân, dùng chiến thuật du kích để tiêu hao sinh lực địch, nghĩa quân mạnh dần lên, đã dùng kế sách "vây thành diệt viện" kết hợp với thuyết phục giặc đầu hàng. Quân ta bao vây thành Đông Quan (Hà Nội), nhà Minh sai tướng An Viễn hầu Liễu Thăng dẫn 10 vạn quân sang cứu viện. Nghĩa quân tổ chức phục binh ở ải Chi Lăng (Lạng Sơn), tướng Trần Lựu chém được Liễu Thăng ở núi Mã Yên và hơn một vạn thủ cấp quân giặc. Quân ta đưa ấn tín, cờ tiết của Liễu Thăng vào thành Đông Quan cho giặc Minh biết. Tướng giặc Vương Thông hết hy vọng vào viện binh đã xin đầu hàng.
Ngày 10-12-1427, Lê Lợi, Nguyễn Trãi cho tướng Minh Vương Thông đến "Hội thề Đông Quan". Chúng thề không bao giờ dám xâm phạm Đại Việt nữa.
Lê Lợi - Nguyễn Trãi lấy đức hiếu sinh, cấp lương thực cho 10 vạn quân Minh được an toàn rút quân về nước.
Ngày 03-01-1428, nghĩa quân hoàn toàn thắng lợi, lập nên triều đại nhà Lê.
Lê Lợi đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, lật đổ ách thông trị của nhà Minh lập ra triều Lê (1428). Từ đấy, quốc gia Đại Việt kế thừa những triều đại Lý - Trần, đạt tới đỉnh cao của sự nghiệp dựng nước, đặt nền tảng cho sự hình thành một quốc gia hoàn chỉnh (nha yêu nước Phan Bội Châu cũng đã tôn vinh Lê Lợi là "vị tổ trung hưng thứ hai" của dân tộc Việt Nam.
Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1428 đến 1883
Thứ năm - 07/07/2011 21:44
Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1428-1527 thời Triều Lê Sơ đến giai đoạn 1847-1883 thời kỳ Dục Tông (Hồng Nhậm)
XVIII. TRIỀU LÊ SƠ (1428-1527) 99 NĂM,
QUỐC HIỆU ĐẠI VIỆT - KINH ĐÔ ĐÔNG ĐÔ (HÀ NỘI)
1. Lê Thái Tổ (Lê Lợi) (1428-1433):
Niên hiệu: Thuận Thiên (1428-1433)
Lê Lợi, sinh ngày 06 tháng 8 năm Ất Sửu (tức 10-9-1385) là con trai thứ ba của ông Lê Khoáng và bà Trịnh Thị Thương, người ở hương Lam Sơn, huyện Lương Giang, trấn Thanh Hoá. Ngay từ khi còn trẻ, Lê Lợi đã tỏ ra là người thông minh, dũng lược, đức độ hơn người, dáng người hùng vĩ, mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, trên vai phải có nốt ruồi đỏ lớn, tiếng nói như chuông, bậc thức giả biết ngay là một người phi thường.
Lớn lên, ông làm chức Phụ đạo ở Khả Lam, ông chăm chỉ dùi mài đọc sách và binh pháp, nghiền ngẫm thao lược, tìm mời những người mưu trí, chiêu tập dân lưu tán, hăng hái dấy nghĩa binh, mong trừ loạn lớn.
Mùa xuân năm Mậu Tuất (1418), Lê Lợi đã cùng những hào kiệt đồng chí hướng như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Văn An, Lê Văn Linh, Bùi Quốc Hưng, Lưu Nhân Chú v.v... chính thức phất cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, xưng là Bình Định Vương, kêu gọi nhân dân đồng lòng đứng lên đánh giặc cứu nước.
Suốt 10 năm nằm gai nếm mật, vào sinh ra tử, Lê Lợi đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi.
Sau hội thề Đông Quan, ngày 29 tháng 12 năm 1427, bại binh của giặc bắt đầu được phép rút quân về nước an toàn, đến ngày 03-01-1428, bóng dáng quân Minh cuối cùng đã bị quét sạch khỏi bờ cõi.
Ngày 15 tháng 4 năm Mậu Thân (1428), Lê Lợi chính thức lên ngôi Vua tại điện Kính Thiên, xưng là "Thuận Thiên thừa vận, Duệ Văn Anh Vũ Đại Vương" đặt tên nước là Đại Việt, đóng đô ở Đông Đô (Hà Nội) đại xá thiên hạ, ban bố "Bình Ngô đại cáo" đây chính là "Tuyên ngôn độc lập" lần thứ 2 của tổ quốc ta. Bình Ngô đại cáo mở đầu ghi:
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Xét như nước Đại Việt ta,
Thực là một nước văn hiến
Cõi bờ sông núi đã riêng
Phong tục Bắc Nam cũng khác..."
Bình Ngô đại cáo do Nguyễn Trãi thảo là một thiên anh hùng ca tuyệt vời, bất hủ, nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, truyền thống quật cường, bất khuất của dân tộc ta.
Trong Đại Việt sử ký toàn thư có ghi lời bàn: "Lê Thái Tổ từ khi lên ngôi đến khi mất, thi hành chính sự, thực rất khả quan, như ấn định luật lệnh, chế tác lễ nhạc, mở khoa thi, đặt cấm vệ, xây dựng quan chức, thành lập phủ huyện, thu thập sách vở, mở mang trường học... cũng có thể gọi là có mưu kế xa rộng, mở mang cơ nghiệp..."
Năm 1430 đổi Đông Đô thành Đông Kinh, Tây Đô (Lam Sơn) thành Tây Kinh.
Lê Thái Tổ mất ngày 22 tháng 8 năm Quý Sửu (1433), hưởng thọ 49 tuổi, táng ở Vĩnh Lăng tại Lam Sơn, Thanh Hoá, trị vì được 5 năm.
3. Lê Thái Tông (Lê Nguyên Long) (1433-1442):
Niên hiệu: - Thiệu Bình (1434-1439)
- Đại Bảo (1440-1442)
Lê Thái Tông tên huý là Nguyên Long, sinh ngày 21 tháng 11 năm Quý Mão (1423), là con thứ hai của Lê Lợi và bà Phạm Thị Ngọc Trần, lên ngôi vua ngày 08 tháng 9 năm Qúy Sửu (1433), lấy niên hiệu là Thiệu Bình.
Đại Việt sử ký toàn thưghi: "Vua thiên tư sáng suốt nối vận thái bình: bên trong ức chế quyền thần, bên ngoài đánh dẹp Di địch. Trọng đạo sùng Nho, mở khoa thi chọn hiền sĩ, xử tù, xét án phần nhiều tha thứ khoan hồng. Cũng là bậc vua tài giỏi nối giữ cơ đồ song đam mê tửu sắc, đến nỗi thình lình băng ở bên ngoài cũng là tự mình chuốc lấy hoạ..."
Lê Thái Tông lên ngôi vua mới 11 tuổi, còn quá trẻ lại phải đối phó với tình hình triều đình khá phức tạp. Mâu thuẫn và chia rẽ giữa hai lực lượng, một bên là các công thần khai quốc, đứng đầu là Đại tư đồ Lê Sát, Lê Ngân; với một bên là những quan lại khoa bảng. Mặc dù vậy, Thái Tông vẫn đủ bản lĩnh để không cho các đại thần hoàn toàn thao túng.
Triều Lê Thái Tông cho phục hồi thi hương, thi hội như triều Trần. Năm 1438, mở thi hương, năm 1439 mở thi hội. Từ đó cứ 3 năm mở một khoa thi. Thi hương cũng phải qua 4 trường, bài thi như triều Trần. Ai trúng tuyển thi hội đều gọi là “Tiến sĩ xuất thân”.
Năm Nhâm Tuất (1442), mở khoa thi Đình cho những người thi Hội đã trúng 4 trường, làm một bài thi do vua ra đề. Đỗ thi Đình gọi là Tiến sĩ chia làm 3 bậc:
- Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ gồm 3 người đỗ đầu: (Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa) gọi là tam khôi.
- Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân gọi là Hoàng giáp.
- Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân gọi là Tiến sĩ.
Những người đậu đều được ghi danh vào bia đá, gọi là bia Tiến sĩ đặt tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám.
Các Tiến sĩ được khắc tên vào bia đá ở Văn Miếu khởi đầu từ đấy.
Ngày 27 tháng 7 năm Nhâm Tuất (1442), Thái Tông đi tuần ở miền Đông, duyệt quân ở thành Chí Linh, Nguyễn Trãi mời vua ngự chùa Côn Sơn, nơi ở của Nguyễn Trãi. Ngày 04 tháng 8, Vua về đến Lệ Chi Viên (vườn vải) huyện Gia Bình (nay thuộc Gia Lương, Bắc Ninh). Cùng đi với vua có Nguyễn Thị Lộ, một người thiếp của Nguyễn Trãi, được vua yêu quý luôn được theo hầu bên cạnh Vua, đêm đó Thái Tông bị bạo bệnh chết đột ngội ở đó, lúc này Thái Tông mới 20 tuổi. Bọn gian thần trong triều đã vu cho Nguyễn Thị Lộ ám hại Vua, chúng kết án “tru di tam tộc” Nguyễn Trãi.
Ngày 16 tháng 8 năm Nhâm Tuất (1442), Nguyễn Trãi và ba họ bị hành hình, chỉ có một người thoát chết là bà Phạm Thị Mẫn, một người thiếp khác của Nguyễn Trãi đang mang thai, được học trò của ông đưa trốn sang Lào, mới thoát chết, đẻ ra Nguyễn Anh Vũ. Sau này, vua Lê Thánh Tông minh oan cho Nguyễn Trãi. Nguyễn Anh Vũ được vua Lê Thánh Tông trọng dụng. Đồng chí Nguyễn Văn Cừ, nguyên Tổng bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương chính là "hậu duệ" (dòng họ ở Tiên Du, Bắc Ninh) của Nguyễn Trãi.
Vua Lê Thánh Tông mất mới 20 tuổi, nhưng đã có bốn con trai do bốn bà vợ sinh ra: Bà Chiêu Nghi Dương Thị Bí sinh ra Nghi Dân; bà Thần phi Nguyễn Thị Anh sinh ra Hoàng tử Bang Cơ; bà Tiệp Dư Ngô Thị Ngọc Giao sinh ra Hoàng tử Tư Thành (sau là vua Lê Thánh Tông) và một bà vợ khác sinh ra Cung Vương Khắc Xương.
3. Lê Nhân Tông (Bang Cơ) (1442-1459):
Niên hiệu: - Thái Hoà (1443-1453)
- Diên Ninh (1454-1459)
Lê Nhân Tông tên huý là Bang Cơ, con thứ của Lê Thái Tông, sinh ngày 09 tháng 6 năm Tân Dậu (1441). Ngày 16 tháng 11 năm Tân Dậu (1441), được lập là Hoàng Thái tử, ngày 12 tháng 8 năm Nhâm Tuất (1442) lên ngôi vua đổi niên hiệu là Thái Hoà. Lúc đó Lê Nhân Tông mới 2 tuổi, Thái hậu Tuyên Từ phải buông rèm nhiếp chính.
Tháng 11 năm Quý Dậu (1453), Vua 12 tuổi, Thái hậu trả quyền chính cho vua rồi lui về ở cung riêng. Vua đổi niên hiệu là Diên Ninh, đại xá cho thiên hạ. Người đời bấy giờ ca ngợi tài năng và đức độ của vua.
Đại Việt sử ký toàn thưghi: "Vua tuổi còn thơ ấu đã có thiên tư sáng suốt, vẻ người tuấn tú, đàng hoàng, dáng điệu nghiêm trang, sùng đạo Nho, nghe can gián, thương người làm ruộng, yêu muôn dân, thực là bậc vua giỏi, biết giữ cơ đồ, không may bị cướp ngôi, giết hại. Thương thay!".
Trước kia, Dương Thị Bí là mẹ Nghi Dân có tội với Lê Thái Tông, nên Nghi Dân không được lập làm thái tử, mới ngầm chứa mưu gian nhòm ngó ngôi báu, cùng bọn đồng đảng là Phạm Đồn, Phan Ban, Trần Lăng cầm đầu bọn vô lại côn đồ, đêm ngày 03 tháng 10 năm Kỷ Mão (1459) bắc thang chia làm ba đường, trèo thành cửa Đông, lẻn vào cung cấm giết chết vua Lê Nhân Tông và Tuyên Từ Hoàng thái hậu.
Lê Nhân Tông bị giết chết lúc mới 19 tuổi, làm vua được 17 năm. Nghi Dân tự lập làm vua, nhưng chỉ 8 tháng sau lại bị các đại thần là Nguyễn Xí, Đinh Liệt xướng nghĩa giết bọn phản nghịch, giáng Nghi Dân xuống tước hầu, rồi lập Hoàng tử Tư Thành lên làm vua, đó là Lê Thánh Tông.
3. Lê Thánh Tông (Tư Thành) (1460-1497):
Niên hiệu: - Quang Thuận (1460-1469)
- Hồng Đức (1470-1797)
Lê Thánh Tông tự là Tư Thành có tên huý là Hạo, con trai út của Lê Thái Tông và bà Ngô Thị Ngọc Giao (con gái Thái Bảo Ngô Từ). Lê Tư Thành được sinh ra tại chùa Huy Văn (phía trong ngõ Văn Chương, Hàng Bột, Hà Nội). Sống giữa chốn dân gian từ nhỏ đến năm lên 4 tuổi, mẹ Nhân Tông buông rèm nghe chính sự, mới đón Tư Thành về phong làm Bình Nguyên Vương, cho ở trong cung để hàng ngày cùng vua Nhân Tông và các vương hầu khác học tập tại toà Kính Diên. Tư Thành chăm chỉ học tập, dáng dấp đoan chính, thông tuệ hơn người, được vua Nhân Tông rất yêu quý.
Lê Thánh Tông sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất (1442), ngày 06 tháng 6 năm Canh Thìn (1460), các quan đại thần phế truất Nghi Dân, rước Tư Thành lên ngôi vua, đặt niên hiệu Quang Thuận.
Lê Thánh Tông hết lòng chăm lo việc nước: mở khoa thi, kén chọn hiền tài ra giúp nước.
Khuyến khích sản xuất nông nghiệp, mở mang ngành nghề, mở rộng giao lưu buôn bán, ban hành chế độ quân điền.
Coi trọng việc bảo vệ biên giới quốc gia, bản đồ biên giới quốc gia Đại Việt được hoàn thành dưới triều Lê Thánh Tông.
Bộ luật Hồng Đức nổi tiếng mang niên hiệu vua Lê Thánh Tông còn lại cho đến nay là một trong những bộ luật hoàn chỉnh và có nhiều điểm tiến bộ nhất dưới thời phong kiến nước ta.
Bộ Đại việt sử ký toàn thư do Sử quan Ngô Sĩ Liên biên soạn năm Kỷ Hợi (1479) dưới sự chỉ đạo của vua Lê Thánh Tông.
Lê Thánh Tông còn lập ra hội Tao Đàn gồm 28 ông tiến sĩ giỏi văn thơ nhất nước thời đó gọi là: "Tao Đàn nhị thập bát tú" do Lê Thánh Tông làm nguyên suý.
Năm Canh Thìn (1470) là năm Hồng Đức nguyên niên, vua Chiêm Thành là Trà Toàn là một tên vua hung bạo, dối thần ngược dân, muốn sinh sự với nước ta.
Một mặt Trà Toàn cho người sang cầu viện nhà Minh, một mặt đem quân sang đánh phá đất Hoá Châu.
Vua Lê Thánh Tông cho sứ sang nhà Minh kể chuyện Trà Toàn làm nhiễu, rồi Ngài thân trinh cử 20 vạn quân sang đánh chiếm Chiêm Thành. Khi đến Thuận Hoá, Ngài cho đóng quân lại để luyện tập và sai người lẻn sang vẽ địa đồ nước Chiêm Thành để biết rõ chỗ hiểm yếu rồi mới tiến binh lên đánh lấy cửa Thị Nại (Bình Định).
Trà Toàn thua trận, chạy về giữ kinh thành Đồ Bàn. Quân ta kéo đến vây đánh, phá được thành, bắt được trà toàn.
Bấy giờ có tướng Chiêm Thành là Bô Trì Trì chạy đến đất Phan Lung, sai sứ vào cống và xưng thần. Vua Lê Thánh Tông mới chia đất đó làm ba nước: Chiêm Thành, Hoà Anh và Nam Phan.
Còn đất Đồ Bàn, đất Đại Chiêm và đất Cổ Luỹ thì vua Lê Thánh Tông lấy để lập thêm đạo Quảng Nam có 3 phủ, 9 huyện, rồi đặt quan cai trị, và chọn dân đinh từ 15 tuổi trở lên, ai là người thông minh, ham học thì cho làm sinh đồ, để dạy cho sự học hành về lễ nghĩa…
Ngày 30 tháng 01 năm Đinh Tỵ (1497), Lê Thánh Tông mất, ở ngôi 38 năm, thọ 56 tuổi, táng ở Chiêu Lăng.
Xem những công việc của vua Lê Thánh Tông trong 38 năm trị vì thì Ngài thật là đấng anh quân. Những sự văn trị và võ công ở nước ta không có đời nào thịnh hơn đời Hồng Đức. Nhờ có vua Lê Thái Tổ thì giang sơn nước Đại Việt mới còn và nhờ có vua Lê Thánh Tông thì nền văn hoá nước ta mới thịnh, cho nên nhân dân ta không bao giờ quên công đức hai vị vua đó.
5. Lê Hiến Tông (Lê Tăng) (1498-1504):
Niên hiệu: Cảnh Thống (1498-1504)
Lê Hiến Tông có tên huý là Huy, con trưởng của Lê Thánh Tông và mẹ là Trường Lạc Thánh Từ Hoàng Thái hậu Nguyễn Thị Hằng, con gái thứ hai của Trình Quốc Công Đức Trung (quê ở Gia Miêu, Tống Sơn, Thanh Hoá).
Lê Hiến Tông sinh ngày 10 tháng 8 năm Tân Tỵ (1461). Tháng 02 năm Đinh Tỵ (1497) len ngôi vua, đặt niên hiệu là Cảnh Thống.
Lê Hiến Tông là một ông vua thông minh hoà hậu, thường khi bãi triều rồi, vua ra ngồi nói chuyện với các quan lời lẽ ôn hoà, sắc mặt vui tươi. Cách cai trị nhàn hạ ung dung mà thiên hạ răm rắp tuân theo lệnh.
Vua chú trọng đặc biệt đến thuỷ lợi, chăm sóc bảo vệ đê điều, bắt đào sông khơi ngòi, đắp đường làm xe nước, để tiện việc sản xuất nông nghiệp. Việc văn học cũng vậy, không bao giờ trễ nải.
Ngày 24 tháng 5 năm Giáp Tý (1504), Hiến Tông mất, thọ 44 tuổi, ở ngôi 7 năm.
6. Lê Túc Tông (06/6/1504-07/12/1504):
Niên hiệu: Thái Trinh (1504)
Lê Túc Tông tên huý là Lê Thuần, là con trai thứ 3 của Lê Hiến Tông, mẹ là Trang Thuận Hoàng Thái hậu Nguyễn Thị Hoàn, quê ở Bình Lăng, Thiên Thi, nay là Ân Thi, Hưng Yên. Túc Tông sinh ngày 03 tháng 8 năm Mậu Thân (1488).
Lê Túc Tông ham học hỏi, thân người hiền, vui điều thiện, đúng là một vị vua giỏi giữ nghiệp thái bình.
Lê Túc Tông lên ngôi vua ngày 06 tháng 6 năm 1504, đặt niên hiệu là Thái Trinh.
Tháng 11 năm 1504, mắc bệnh nặng, biết không qua khỏi mới mời các quan triều thần đến để chỉ định người anh thứ hai là Lê Tuấn lên ngôi vua. Ngày 7-12-1504, vua Túc Tông mất, ở ngôi được 6 tháng, thọ 17 tuổi.
7. Lê Uy Mục (Lê Tuấn) (1505-1509):
Niên hiệu: Đoan Khánh (1505-1509)
Lê Uy Mục tên huý là Tuấn, sinh ngày 5 tháng 5 năm 1488, mẹ là Chiêu Nhân Hoàng Thái hậu Nguyễn Thị Cận, người làng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn (Bắc Ninh), lên ngôi vua ngày 22 tháng 01 năm 1505, đặt niên hiệu là Đoan Khánh.
Lê Uy Mục từ khi lên ngôi vua, ham rượu chè, gái đẹp, thích giết người, tin dùng người họ mẹ.
Sự tàn bạo quá đáng của Lê Uy Mục đã gây bất bình trong dân chúng và triều thần, đương thời gọi là “Vua quỷ”.
Tháng 11 năm 1509, Giản Tu Công Oanh tự xưng là Cẩm Giang Vương ở Tây Đô (Thanh Hoá) đưa quân về chiếm Đông Kinh (Hà Nội) bắt được và bức Lê Uy Mục tự tử tháng 12-1509.
Lê Uy Mục ở ngôi được 4 năm, thọ 22 tuổi.
8. Lê Tương Dực (Lê Oanh) (1509-1516):
Niên hiệu: Hồng Thuận (1510-1516)
Lê Tương Dực tên huý là Oanh, là cháu nội của vua Lê Thánh Tông, con thứ hai của Kiến Vương Lê Tân và bà Huy Từ Hoàng Thái hậu Trịnh Thị Tuyên, người làng Thuỷ Chú, huyện Lôi Dương (tức Thọ Xuân, Thanh Hoá), sinh ngày 25 tháng 6 năm Quý Sửu (1493).
Sau khi giết Lê Uy Mục, Oanh tự lập làm vua tháng 10 năm Kỷ Tỵ (1509), đặt niên hiệu là Hồng Thuận.
Bản thân Lê Tương Dực cũng lao vào con đường ăn chơi truỵ lạc. Tháng 5-1514, nghe sàm tấu của Hiệu uý Hữu Vĩnh giết chết 15 Vương Công, cho gọi các cung nhân của triều trước vào cung để gian dâm, người đương thời gọi là “Vua lợn”.
Lê Tương Dực tính hay chơi bời và xa xỉ, như sai Vũ Như Tô làm cái điện 100 nóc, xây Cửu Trùng Đài, bắt quân dân làm trong mấy năm trời không xong, mà thật là tổn hại tiền của, chết hại nhiều người.
Trịnh Duy Sản nhiều lần can ngăn, Vua không nghe, còn đem Sản ra đánh bằng trượng.
Tháng 4-1516, Trịnh Duy Sản sai đâm chết Tương Dực. Tương Dực ở ngôi được 7 năm, thọ 17 tuổi.
9. Lê Chiêu Tông (Lê Ý) (1516-1522):
Niên hiệu: Quang Thiệu (1516-1522)
Lê Chiêu Tông tên huý là Ý, có tên nữa là Huệ, cháu bốn đời của Lê Thánh Tông, con trưởng của Cẩm Giang vương Lê Sùng và bà Hoàng Thái hậu Trịnh Thị Loan, người xã Phi Bạo, huyện Thanh Chương (Nghệ An).
Lê Chiêu Tông sinh ngày 4 tháng 10 năm Bính Dần (1506).
Sau khi giết Tương Dực, Trịnh Duy Sản và Lê Nghĩa Chiêu đón Lê Ý (mới 11 tuổi) về tôn làm vua, đặt niên hiệu là Quang Thiệu.
Dưới triều Lê Chiêu Tông, giặc giã nổi lên như ong, dân chúng khổ sở về cảnh loạn lạc, đầu rơi máu chảy.
Mạc Đăng Dung là một trong những người phò lập vua, bằng tài năng quân sự nổi bật đã khôn khéo thâu tóm quyền hành. Quyền uy của Mạc Đăng Dung ngày một lớn. Mạc Đăng Dung cho con gái nuôi vào hầu Vua thực ra là để dò xét coi giữ, Mạc Đăng Doanh là con lớn của Mạc Đăng Dung làm chức Dục Mỹ hầu trông coi điện Kim Quang. Bố con Mạc Đăng Dung ngày càng có mưu đồ thoán đoạt.
Trước tình hình đó, Lê Chiêu Tông mưu ngầm với Trịnh Tuy tìm cách triệt hạ thế lực của họ Mạc. Mưu bị bại lộ, vua phải bỏ Đông Đô chạy ra ngoài vào ngày 27 tháng 7 năm Nhâm Ngọ (1522).
Mạc Đăng Dung đã cùng triều thần lập Lê Xuân, em của Lê Chiêu Tông lên làm vua vào ngày 01 tháng 8 năm Nhâm Ngọ (1522). Lê Chiêu Tông bị giáng xuống làm Đà Dương Vương rồi bị Mạc Đăng Dung bắt và giết chết vào ngày 18 tháng 12 năm Bính Tuất (1526) thọ 21 tuổi, làm vua được 6 năm.
10. Lê Cung Hoàng (Lê Xuân) (1522-1527):
Niên hiệu: Thống nguyên (1522-1527)
Lê Cung Hoàng tên húy là Xuân được Mạc Đăng Dung lập lên làm vua khi 15 tuổi.
Lê Cung Hoàng sinh ngày 26 tháng 7 năm Đinh Mão (1507). Ngày 01 tháng 8 năm Nhâm Ngọ (1522) được Mạc Đăng Dung lập làm vua, đặt niên hiệu là Thống Nguyên.
Năm 1524, Mạc Đăng Dung tự mình thăng tước Bình Chương quân quốc trọng sự Thái phó Nhân quốc công. Tháng 10 năm 1525, Mạc Đăng Dung tự làm Đô tướng dẫn tất cả thuỷ, lục quân vào đánh Thanh Hoá, bắt được vua Lê Chiêu Tông đem về kinh sư giam cầm và đến tháng 12-1526 thì đem giết chết.
Sau khi giết chết Lê Chiêu Tông, Mạc Đăng Dung rút quân về đóng ở Cổ Trai, nhưng vẫn chế ngự triều đình. Tháng 4-1527, Cung Hoàng sai Trung sứ Đỗ Hiếu Đế đến làng Cổ Trai tấn phong cho Đăng Dung làm An Hưng Vương.
Mặc dù được Vua ân sủng hậu đãi và giao phó trọng trách, nhưng Mạc Đăng Dung vẫn kiên quyết chớp thời cơ giành ngôi hoàng đế về cho họ Mạc.
Ngày 15 tháng 6 năm Đinh Hợi (1527), Mạc Đăng Dung đem quân từ Cổ Trai vào kinh đô Thăng Long ép Vua phải nhường ngôi, bắt Vua và Hoàng Thái hậu giam ở Tây cung, vài tháng sau bắt Vua và Thái hậu tự tử. Như vậy Lê Cung Hoàng ở ngôi được 5 năm, thọ 21 tuổi.
Kể từ Lê Thái Tổ lên ngôi năm 1428 đến Lê Cung Hoàng bị giết vào năm 1527, trải qua 10 đời Vua, cả thảy 99 năm, Các nhà sử học gọi là triều Lê Sơ.
Vận nhà Lê bị suy vi, nhưng công đức của Lê Thái Tổ và Lê Thánh Tông làm cho lòng người không quên nhà Lê, cho nên dẫu nhà Mạc có cướp ngôi cũng không được lâu bền, và về sau họ Trịnh tuy có chuyên quyền nhưng cũng chỉ giữ ngôi chúa chứ không giám cướp ngôi vua.
XIX. NHÀ MẠC (1527-1592) 65 NĂM,
KINH ĐÔ ĐÔNG ĐÔ (HÀ NỘI)
1- Mạc Đăng Dung (1527-1529):
Niên hiệu: Minh Đức (1527-1529)
Mạc Đăng Dung quê ở làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương (Hải Dương) nay thuộc Đồ Sơn, Hải Phòng, là cháu bảy đời của Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi làm quan đến chức Nhập nội hành khiển (Tể tướng) thời Trần, bố là Mạc Hịch, mẹ là Đặng Thị Hiến, sinh ra 3 người con trai là: Mạc Đăng Dung, Mạc Đăng Đốc và Mạc Đăng Quyết.
Mạc Đăng Dung sinh ngày 23 tháng 11 năm Quý Mão (1483). Thời trẻ, Mạc Đăng Dung có sức khoẻ phi thường, tướng mạo khôi ngô. Mạc Đăng Dung từ một thanh niên nghèo, làm nghề đánh cá, đi thi võ ở kinh đô, trúng Đô lực sĩ được sung vào chân túc vệ chuyên cầm dù đi theo xe vua.
Mạc Đăng Dung tiến rất nhanh trên con đường hoan lộ, năm 1511 mới 29 tuổi đã được phong tước Vũ Xuyên bá. Năm 1516, Mạc Đăng Dung được cử làm Trấn thủ Sơn Nam với chức Phó tướng Tả đô đốc.
Trải qua 3 đời vua Lê, Mạc Đăng Dung được phong làm Thái sư Nhân quốc công rồi đến An Hưng vương.
Lợi dụng lúc vua Lê Cung Hoàng ươn hèn, tháng 6 năm 1527, Mạc Đăng Dung từ Cổ Trai đem quân về kinh đô ép vua nhường ngôi, tự lập làm vua, đặt niên hiệu là Minh Đức.
Về đối ngoại, Mạc Đăng Dung sai sứ đem biểu sang dâng nhà Minh nói rằng con cháu nhà Lê không còn ai thừa tự, cho nên di chúc cho đại thần họ Mạc tạm quản việc nước để yên dân.
Nhà Minh sai người sang dò xét hư thực, Mạc Đăng Dung cùng các bầy tôi khác dùng vàng bạc đút lót những viên tướng biên thùy nhà Minh để tranh thủ sự ủng hộ của họ. Vì thế năm Kỷ Sửu (1529) anh em Trịnh Nguyên và Trịnh Ngang là cựu thần nhà Lê chạy sang cầu viện nhà Minh song không thành, hai viên quan đó đều chết già trên đất nhà Minh.
Bắt chước nhà Trần, tháng 12 năm 1529, Mạc Đăng Dung nhường ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh làm vua, còn mình làm Thái Thượng hoàng. Lúc đó Mạc Đăng Dung mới 46 tuổi. Mạc Đăng Dung mất tháng 8 năm Tân Sửu (1541), thọ 59 tuổi.
2- Mạc Đăng Doanh (1530-1540):
Niên hiệu: Đại Chính (1530-1540)
Mạc Đăng Doanh là con trưởng của Mạc Đăng Dung, ngày 01 tháng Giêng năm Canh Dần (1530) lên ngôi vua, đổi niên hiệu là Đại Chính, tôn Đăng Dung làm Thái Thượng hoàng.
Mạc Đăng Doanh làm cung điện nguy nga ở Cổ Trai để Thái Thượng hoàng sống ở đó vui thú điền viên, nhưng ngụ ý là trấn giữ một vùng quan trọng làm ngoại viện cho Mạc Đăng Doanh và vẫn định đoạt những việc trọng đại của quốc gia.
Từ khi Mạc Đăng Doanh lên ngôi vua thì ở Thanh Hoá, cựu thần nhà Lê là Nguyễn Kim dựa vào rừng núi ở biên giới Việt - Lào lãnh đạo lực lượng trung hưng nhà Lê ngày càng lớn mạnh. Năm Quý Tỵ (1533), các cựu thần nhà Lê lập Lê Duy Ninh lên làm vua gọi là Lê Trang Tông.
Dưới triều Mạc, cứ 3 năm mở một kỳ thi Hội, thi Đình để tuyển chọn nhân tài. Nguyễn Bỉnh Khiêm đỗ trạng Nguyên dưới triều Mạc Đăng Doanh.
Ngày 15 tháng Giêng năm Canh Tý (1540), Mạc Đăng Doanh chết, ở ngôi được 10 năm.
3- Mạc Phúc Hải (1541-1546):
Niên hiệu: Quảng Hòa (1541-1546)
Mạc Phúc Hải là con trưởng của Mạc Đăng Doanh, được ông nội là Thái Thượng hoàng Mạc Đăng Dung lập làm vua vào năm Tân Sửu (1541).
Thời Mạc Phúc Hải đã tiến hành chia cấp lộc điền, đặc biệt ưu tiên binh sĩ, vì lực lượng quân sĩ to lớn được nuôi dưỡng để chống lại nhà Lê Trung Hưng (Nam Triều).
Ngày 08 tháng 5 năm Bính Ngọ (1546), Mạc Phúc Hải chết, ở ngôi được 5 năm. Con trưởng là Mạc Phúc Nguyên kế vị.
4- Mạc Phúc Nguyên (1546-1564):
Niên hiệu: - Vĩnh Định (1547)
- Cảnh Lịch (1548-1553)
- Quang Bảo (1554-1564)
Mạc Phúc Nguyên lên ngôi vua vào tháng 5 năm Bính Ngọ (1546), lúc đó còn nhỏ tuổi, mọi công việc triều chính đều do chú ruột là Khiêm Vương Mạc Kính Điển quyết đoán cả.
Tháng 7-1557, Mạc Phúc Nguyên sai Mạc Kính Điển đem quân vào đánh Thanh Hoá, Quân Mạc thua to, Mạc Kính Điển phải nhảy xuống sông ẩn nấp suốt 3 ngày mới thoát chết.
Đến năm Kỷ Mùi (1559), quân Lê - Trịnh mở cuộc tấn công vào hậu phương của nhà Mạc như Sơn Tây, Tuyên Quang, Hưng Hoá, Kinh Bắc, Hải Dương... Mạc Phúc Nguyên phải rút vào phòng thủ bên ngoài thành Đông Đô.
Tháng 12 năm Giáp Tý 1564, giữa lúc cuộc chiến Lê - Mạc đang gay go quyết liệt nhất thì Mạc Phúc Nguyên chết vì bệnh đậu mùa. Mạc Phúc Nguyên làm vua được 18 năm.
5- Mạc Mậu Hợp (1564-1592):
Niên hiệu: -Thuần Phúc (1565-1567)
- Sùng Khang (1568-1577)
- Diên Thành (1578-1585)
- Đoan Thái (1585-1587)
- Hưng Trị (1588-1590)
- Hồng Ninh (1591-1592)
Mạc Mậu Hợp là con cả của Mạc Phúc Nguyên, năm Giáp Tý (1564) lên ngôi vua hãy còn bé. Ứng vương Mạc Đôn Nhượng (con út Mạc Đăng Dung) làm Nhập nội phụ chính ẵm Mạc Mậu Hợp ra coi chầu, tôn ông chú là Khiêm Vương Mạc Kính Điển làm Khiêm Đại Vương cùng trông coi việc triều chính.
Ngày 21 tháng 02 năm Mậu Dần (1578), Mạc Mậu Hợp bị sét đánh ở trong cung, bị bại liệt nửa người, sau chữa thuốc lại khỏi, bèn đổi niên hiệu là Diên Khánh.
Tháng 10 năm Canh Thìn (1580), Phụ chính Mạc Kính Điển, trụ cột của triều Mạc chết, Ứng Vương Mạc Đôn Nhượng giữ quyền phụ chính quyết định mọi việc nhưng lại thường về sống ở Dương Kinh, vì vậy việc triều chính bê bối không ai quyết đoán.
Năm 1581, Mạc Mậu Hợp bị chứng thong manh, chữa mãi mới khỏi. Khỏi bệnh, Mạc Mậu Hợp lao vào ăn chơi truỵ lạc, chính sự nhà Mạc ngày càng đổ nát, binh lực suy yếu, lòng người ly tán.
Ngày 25 tháng 11 năm 1592, thủy quân Lê - Trịnh gồm 300 chiến thuyền đánh vào các huyện Kim Thành, Thanh Hà, Nam Sách, Kinh Môn (tỉnh Hải Dương ngày nay). Quân Mạc tan vỡ, dư Đảng nhà Mạc xin hàng Trịnh Tùng rất đông.
Mạc Mậu Hợp chạy trốn, bị bắt giải về kinh đô Đông Đô, bị treo sống 3 ngày xong bị chém đầu ở bãi cát Bồ Đề.
Mạc Mậu Hợp ở ngôi vua được 30 năm, khi chết 31 tuổi.
Con trai Mạc Mậu Hợp là Mạc Toàn chạy trốn, sau bị quân Trịnh bắt được đem chém đầu tại bến Thảo Tân.
Như vậy họ Mạc từ Mạc Đăng Dung đến Mạc Mậu Hợp truyền ngôi được 5 đời thì mất, tổng cộng được 65 năm.
Con cháu nhà Mạc theo lời dạy của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm rút lên Cao Bằng, còn kéo dài được đến năm 1677 mới bị diệt hẳn:
6. Mạc Toàn (1592-1592)
7. Mạc Kính Chỉ (1592-1593)
8. Mạc Kính Cung (1593-1625)
9. Mạc Kính Khoan (1625-1638)
10. Mạc Kính Vũ (1638 - 1677)
Như vậy nhà Mạc tồn tại đúng 150 năm.
XX. NHÀ LÊ TRUNG HƯNG (1533-1788): 255 NĂM
1. Lê Trang Tông (1533-1548):
Niên hiệu: Nguyên Hòa (1533-1548)
Lê Trang Tông tên huý là Duy Ninh, là con của vua Lê Chiêu Tông, mẹ là Phạm Thị Ngọc Quỳnh, cháu năm đời của Lê Thánh Tông.
Khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, Duy Ninh mới 11 tuổi, được Lê Quán cõng chạy sang Ai Lao đổi tên là Huyến. Đến tháng Giêng năm Quý Tỵ (1533) được Chiêu Huấn Công Nguyễn Kim đón Duy Ninh về lập lên làm vua.
Duy Ninh lên làm vua đặt niên hiệu là Nguyên Hoà, tôn Nguyễn Kim làm Thượng phụ Thái sư Hưng Quốc Công, lấy Sầm Hà làm nơi hành tại, giao kết với vua Ai Lao là Xạ Đẩu để nhờ quân lương, mưu việc lấy lại nước.
Tháng 12 năm 1540, Nguyễn Kim kéo quân từ Ai Lao về đánh Nghệ An, hào kiệt các nơi theo về giúp Lê Trung Hưng rất đông. Cuối năm 1543, Lê Trung Hưng chiếm được Tây Đô (Thanh Hoá). Nước ta từ đó hình thành "Nam - Bắc triều". Từ Thanh Hoá, Nghệ An trở vào do Lê Trung Hưng cai quản (Nam triều). Cả vùng Bắc Bộ trong đó có Kinh đô Đông Đô thuộc nhà Mạc cai quản (Bắc triều). Hai bên Lê - Mạc nội chiến tàn khốc kéo dài gần 50 năm (1543-1592).
Năm 1545, Nguyễn Kim tiến quân đánh Sơn Nam, đến Yên Mô (Ninh Bình), thì bị hàng tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đánh thuốc độc giết chết.
Trịnh Kiểm là con rể Nguyễn Kim, nắm giữ binh quyền, mở đầu thời kỳ "vua Lê, chúa Trịnh" sau này.
Năm 1546, Trịnh Kiểm lập hành doanh vua Lê ở Vạn Lại (Thanh Hoá). Lấy danh nghĩa "phù Lê, diệt Mạc", nhiều hào kiệt, danh sĩ đương thời tìm vào Thanh Hoá phò Lê Trung Hưng như Lương Đắc Bằng, Phùng Khắc Khoan...
Năm 1548, Lê Trang Tông mất, thọ 34 tuổi, ở ngôi được 15 năm. Trịnh Kiểm lập Thái tử Duy Huyên lên nối ngôi là Lê Trung Tông.
2. Lê Trung Tông (1548-1556):
Niên hiệu: Thuận Bình (1548-1556)
Lê Trung Tông tên huý là Huyên, là con của Lê Trang Tông, tính tình khoan dung, thông tuệ, có tài lược đế vương, Trung Tông sinh năm Giáp Ngọ (1534).
Năm Mậu Thân (1548), được lập làm vua khi mới 15 tuổi, lấy hiệu là Trung Tông, phong cho Trịnh Kiểm là Lượng Quốc công quyết định mọi việc triều chính.
Năm 1554, nhà Lê mở khoa thi để chọn nhân tài, lấy đỗ Tiến sĩ đệ nhất giáp 5 người, đệ nhị giáp 8 người như Đinh Bạt Tuỵ, Chu Quang Trứ,... một số tướng tài giỏi như Lê Bá Ly, Nguyễn Khải Khang, Nguyễn Thiến, Lê Khắc Thận... bỏ nhà Mạc vào Tây Đô phò giúp nhà Lê Trung Hưng.
Tháng Giêng năm 1556, Lê Trung Tông mất mới 22 tuổi, không có con, ở ngôi được 8 năm.
Trịnh Kiểm bàn với các đại thần rằng: "Nước không thể một ngày không vua", liền sai người đi tìm con cháu nhà Lê, tìm được Lê Duy Bang là cháu sáu đời của Lam Quốc Công Lê Trừ (anh thứ hai của Lê Lợi) đang ở hương Bố Vệ, huyện Đông Sơn (Thanh Hoá), đón về lập làm vua.
3. Lê Anh Tông (1556-1573):
Niên hiệu:- Thiên Hựu (1556-1557)
- Chính Trị (1558-1571)
- Hồng Phúc (1572-1573)
Lê Anh Tông tên huý là Duy Bang, dòng dõi nhà Lê, trước đó anh thứ hai của Lê Lợi là Lê Trừ được phong là Lam Quốc Công, Trừ sinh ra Khang, Khang sinh ra Thọ, Thọ sinh ra Duy Thiệu, Thiệu sinh ra Duy Khoáng, Duy Khoáng lấy vợ ở hương Bố Vệ sinh ra Duy Bang. Khi Lê Trung Tông mất không có con nối, Thái sư Trịnh Kiểm và các đại thần tìm được Duy Bang đón về lập làm vua khi đó đã 25 tuổi.
Mọi việc trong triều đều do Trịnh Kiểm quyết định, Vua chỉ việc nghe theo.
Cũng trong thời gian đó, Nguyễn Hoàng, con thứ 2 của Nguyễn Kim, nhờ chị gái là Ngọc Bảo (vợ Trịnh Kiểm), xin anh rể vào trấn thủ xứ Thuận - Quảng, được Trịnh Kiểm đồng ý cho đi.
Tháng 02 năm 1570, Trịnh Kiểm ốm nặng rồi mất. Anh em Trịnh Cối, Trịnh Tùng tranh giành nhau quyền bính, đánh lẫn nhau. Vua Lê Anh Tông đã trực tiếp điều hành triều chính và đứng ra dàn xếp các mâu thuẫn này, sau Trịnh Cối đem cả vợ con ra hàng nhà Mạc.
Lê Anh Tông phong cho Trịnh Tùng tước Trưởng quận công nắm giữ binh quyền để đánh nhà Mạc.
Tháng 3-1572, Lê Cập Đệ, cận thần nhà Lê, mưu giết Tả tướng Trịnh Tùng, việc không thành, Lê Cập Đệ bị Trịnh Tùng giết. Một số cận thần khác như Cảnh Hấp và Đình Ngạn nói với Vua rằng: "Tả tướng cầm quân, quyền thế rất lớn, bệ hạ khó lòng tồn tại với ông ta được", Vua nghi hoặc, đương đêm đem theo bốn hoàng tử cùng chạy đến thành Nghệ An và ở lại đó. Tả tướng Trịnh Tùng cùng với triều thần lập con thứ 5 của Lê Anh Tông là Duy Đàm lên ngôi vua, và sai Nguyễn Hữu Liên đi đón vua Lê Anh Tông, khi về đến Lôi Dương (Thanh Hoá), ngầm bức hại vua rồi phao tin là vua tự thắt cổ chết vào ngày 22 tháng 01 năm Quý Dậu (1573).
Như vậy, Lê Anh Tông ở ngôi 16 năm, thọ 42 tuổi.
4. Lê Thế Tông (1573-1599):
Niên hiệu: - Gia Thái (1573-1577)
- Quang Hưng (1578-1599)
Lê Thế Tông tên huý là Duy Đàm, sinh tháng 11 năm Đinh Mão (1567). Tháng 01 năm Quý Dậu (1573) được lập làm vua, mới 7 tuổi, quyền hành tất cả ở trong tay Tả tướng Trịnh Tùng.
Sau gần 50 năm nội chiến Nam - Bắc triều với gần 40 trận đánh lớn nhỏ, hàng vạn dân lành bị bắt vào lính, phục vụ cho các cuộc tàn sát khủng khiếp. Có trận mỗi bên huy động hàng chục vạn quân, hai bên giằng co khá quyết liệt. Mãi đến năm 1591, Trịnh Tùng huy động tổng lực đánh trận quyết định ở Đông Kinh, tháng 11 năm Nhâm Thìn (1592) bắt được Mạc Mậu Hợp, chiếm được kinh thành. Tháng 02 năm Quý Tỵ (1593), Trịnh Tùng đón Lê Thế Tông về kinh đô Đông Đô.
Công cuộc Lê Trung Hưng đã hoàn thành. Trịnh Tùng tự xưng là Đô Nguyên suý Tổng quốc chính Thượng phụ Bình An Vương toàn quyền quyết định. Vua chỉ ngồi chắp tay làm vì, bắt đầu thời kỳ "vua Lê - chúa Trịnh".
Ngày 24 tháng Tám năm Kỷ Hợi (1599), Lê Thế Tông mất, ở ngôi được 26 năm, thọ 33 tuổi.
5. Lê Kính Tông (1599-1619):
Niên hiệu: - Thuận Đức (1600)
- Hoằng Định (1601-1619)
Lê Kính Tông tên huý là Duy Tân, con thứ của Lê Thế Tông, ngày 27 tháng Tám năm Kỷ Hợi (1599) được Trịnh Tùng lập làm vua, khi đó mới 11 tuổi.
Từ đầu thế kỷ 17, sau khi đánh tan nhà Mạc, giành lại được kinh đô Đông Đô (dư đảng nhà Mạc phải rút lên Cao Bằng), quyền lực của Trịnh Tùng ngày càng lớn, triều đình chỉ biết phục vụ nhà Chúa.
Trước tình hình đó, vua Lê Kính Tông cùng với Trịnh Xuân (con thứ của Trịnh Tùng) mưu giết Trịnh Tùng bị bại lộ, Trịnh Xuân bị bắt giam, còn Kính Tông bị bức thắt cổ chết vào ngày 12 tháng Năm năm Kỷ Mùi (1619).
Lê Kính Tông ở ngôi được 19 năm, thọ 32 tuổi.
6. Lê Thần Tông (1619-1662) (2 lần):
Niên hiệu: * Lần 1(1619-1643)
- Vĩnh Tộ (1620-1628)
- Đức Long (1629-1634)
- Dương Hòa (1635-1643)
* Lần 2 (1649-1662)
- Khánh Đức (1649-1652)
- Thịnh Đức (1653-1657)
- Vĩnh Thọ (1658-1661)
- Vạn Khánh (1662)
Lê Thần Tông tên huý là Duy Kỳ, con trưởng của Lê Kính Tông và bà Trịnh Thị Ngọc Trinh (con thứ của Trịnh Tùng).
Duy Kỳ sinh ngày 19 tháng 11 năm Đinh Mùi (1607), là cháu ngoại của Bình An Vương Trịnh Tùng, tháng 6 năm Kỷ Mùi (1619) được lập làm vua khi đó mới 12 tuổi.
Vua có sống mũi cao, thông minh, học rộng, mưu lược sâu, văn chương giỏi. Song lấy Trịnh Thị Ngọc Trúc (là vợ của chú họ) để tiếng xấu về sau.
Tháng 10 năm Quý Mùi (1643), Lê Thần Tông nhường ngôi cho con là Lê Duy Hựu (tức Lê Chân Tông) để làm Thái thượng hoàng.
Tháng 8 năm Kỷ Sửu (1649), Lê Chân Tông bị bạo bệnh mất, vì không có con nối ngôi, Trịnh Tráng lại rước Thượng hoàng Lê Thần Tông trở lại ngôi vua lần thứ 2.
Ngày 22 tháng 9 năm Nhâm Dần (1662), Lê Thần Tông mất thọ 56 tuổi, ở ngôi 24 năm, làm Thái thượng hoàng 6 năm, lại lên ngôi 13 năm, tổng cộng làm vua 2 lần 37 năm.
7. Lê Chân Tông (1643-1649):
Niên hiệu: Phúc Thái (1643-1649)
Lê Chân Tông tên huý là Duy Hựu, con trưởng của Lê Thần Tông sinh năm Canh Ngọ (1630). Tháng 10 năm Quý Mùi (1643), được truyền ngôi lúc 13 tuổi, ở ngôi được 6 năm, năm 1649 bị bệnh mất, mới 20 tuổi, chưa có con nối ngôi.
Lê Thần Tông trở lại ngôi vua lần thứ 2.
Lê Thần Tông (1649-1662) (lần 2).
8. Lê Huyền Tông (1663-1671):
Niên hiệu: Cảnh Trị (1663-1671)
Lê Huyền Tông tên huý là Duy Vũ, con thứ hai của Lê Thần Tông, em của Lê Chân Tông, sinh năm Giáp Ngọ (1654), tháng 11 năm Nhâm Dần (1662) được lập làm vua mới 9 tuổi, ở ngôi vua được 8 năm, ngày 15 tháng 10 năm Tân Hợi (1671), Lê Huyền Tông mất mới 18 tuổi, chưa có con nối.
9. Lê Gia Tông (1672-1675):
Niên hiệu:- Dương Đức (1672-1673)
- Đức Nguyên (1674-1675)
Lê Gia Tông tên huý là Duy Hội (còn tên khác là Duy Cối), con thứ của Lê Thần Tông, em của Lê Chân Tông và Lê Huyền Tông, con bà Chiêu Nghi Lê Thị Ngọc Hoàn, sinh năm Tân Sửu (1661), được lập làm vua ngày 19 tháng 11 năm Tân Hợi (1671).
Vua tướng mạo anh tú, tính tình khoan hoà, có đức độ làm vua, tiếc rằng ở ngôi được 3 năm, ngày 03 tháng 4 năm Ất Mão (1675) chết mới 15 tuổi, chưa có con nối.
10. Lê Hy Tông (1675-1705):
Niên hiệu: - Vĩnh Trị (1676-1680)
- Chính Hòa (1680-1705)
Lê Hy Tông tên huý là Duy Hợp (còn tên khác là Duy Cáp), con thứ của Lê Thần Tông, em của Lê Gia Tông, được Tây Vương Trịnh Tạc lập làm vua ngày 12 tháng 6 năm Ất Mão (1675).
Vua sinh ngày 15 tháng 3 năm Quý Mão (1663).
Nhà vua dựa vào chúa Trịnh để giữ cơ nghiệp có sẵn, kỷ cương được chấn hưng, được người đời ca ngợi là vua bậc nhất thời Lê Trung Hưng.
Tháng 4 năm Ất Dậu (1705), nhường ngôi cho con trưởng là Lê Duy Đường. Vua Lê Hy Tông còn vui sống trong cảnh an nhàn 12 năm sau mới mất vào tháng 4 năm Bính Thân (1716), ở ngôi được 30 năm, thọ 54 tuổi.
11. Lê Dụ Tông (1705-1729):
Niên hiệu: - Vĩnh Thịnh (1705-1719)
- Bảo Thái (1720-1729)
Lê Dụ Tông tên huý là Duy Đường, con trưởng của Lê Hy Tông và bà Nguyễn Thị Ngọc Đệ (quê Đông Ngàn, Bắc Ninh).
Dụ Tông sinh tháng 10 năm Canh Thân (1680), được lập làm vua vào tháng 4 năm Ất Dậu (1705) đặt niên hiệu là Vĩnh Thịnh.
Nhà vua rũ áo, ngồi ở trên, dựa vào chúa Trịnh Cương và quần thần giúp việc đắc lực như Nguyễn Công Hãng, Lê Anh Tuấn v.v... Họ đưa ra chủ trương cải cách trên nhiều lĩnh vực về kinh tế - tài chính, thi cử, tổ chức hành chính... nhưng các cải cách đó chưa thu được kết quả thì chúa Trịnh Cương qua đời.
Ngày 20 tháng 4 năm Kỷ Dậu (1729), Lê Dụ Tông nhường ngôi cho con là Duy Phường.
Tháng Giêng năm Tân Hợi (1731), Thượng hoàng Lê Dụ Tông mất, thọ 52 tuổi, ở ngôi 24 năm.
12. Lê Duy Phường (1729-1732):
Niên hiệu: Vĩnh Khánh (1729-1732)
Thái tử Lê Duy Phường là con thứ của Lê Dụ Tông, cháu ngoại của chúa Trịnh Cương, được vua cha nhường ngôi cho làm vua năm Kỷ Dậu (1729) đặt niên hiệu là Vĩnh Khánh, nhưng khi Trịnh Cương mất thì ngôi vua của Duy Phường không đứng vững.
Khi Chúa Trịnh Giang lên nối ngôi Chúa, tháng 8-1732 đã giáng Duy Phường xuống làm Hôn Đức Công và buộc thắt cổ chết vào tháng 9 năm Ất Mão (1735) thọ 25 tuổi…
Trịnh Giang lập con trưởng của Lê Dụ Tông là Duy Tường lên làm vua.
13. Lê Thuần Tông (1732-1735):
Niên hiệu: Long Đức (1732-1735)
Lê Thuần Tông tên huý là Duy Tường, con trưởng của Lê Dụ Tông được chúa Trịnh Giang lập làm vua năm Nhâm Tý (1732), đặt niên hiệu là Long Đức. thuần Tông sinh tháng 02 năm Kỷ Mão (1699). Tháng 4 năm Ất Mão (1735) Thuần Tông mất, thọ 37 tuổi, làm vua được 3 năm.
Lê Thuần Tông mất, chúa Trịnh Giang lập Duy Thìn là con thứ 11 của Lê Dụ Tông lên làm vua.
14. Lê Ý Tông (1735-1740):
Niên hiệu: Vĩnh Hựu (1735-1740)
Lê Ý Tông tên huý là Duy Thìn (còn tên khác là Duy Thận), sinh tháng 02 năm Kỷ Hợi (1719).
Ngày 27 tháng 4 năm Ất Mão (1735) được Trịnh Giang lập làm vua, đặt niên hiệu là Vĩnh Hựu.
Chúa Trịnh Giang là kẻ vô cùng bạo ngược, sát hại công thần, giết vua nọ lập vua kia. Vì thế, tháng 12 năm 1738, các tôn thất nhà Lê như Lê Duy Mật, Duy Quý (con Dụ Tông), Duy Chúc (con Hy Tông) nổi lên chiếm cứ miền thượng du Tây Nam Thanh Hoá chống nhau với nhà Trịnh ròng rã 30 năm.
Từ ngày giết vua, Trịnh Giang ngày càng lấn át quyền vua. Trịnh Giang tha hồ ăn chơi trác táng, vì thế mắc bệnh kinh quý, sợ sấm sét. Bọn hoạn quan Hoàng Công Phụ cho đào đất làm cung thưởng trì dưới hầm cho Trịnh Giang ở. Bọn hoạn quan tha hồ lũng đoạn triều chính. Các quan đại thần kế tiếp nhau bị giết hại, thuế khoá nặng nề, lòng dân ly tán. Các cuộc khởi nghĩa của nhân dân nổ ra khắp nơi.
Trước tình hình nguy ngập đó, Trịnh Thái Phi (mẹ Trịnh Giang và Trịnh Doanh) cho triệu quần thần đến đưa Trịnh Doanh lên thay Trịnh Giang để trừ hoạn nạn.
Năm 1740, Trịnh Doanh lên thay Trịnh Giang, tháng 5 năm 1740, Trịnh Doanh ép Lê Ý Tông nhường ngôi cho con trưởng của Thuần Tông là Duy Diêu, 19 năm sau Lê Ý Tông mất, thọ 40 tuổi, trị vì được 5 năm.
15. Lê Hiển Tông (1740-1786):
Niên hiệu: Cảnh Hưng (1740-1786)
Lê Hiển Tông sinh tháng 4 năm Đinh Dậu (1717), là con trưởng của Thuần Tông và bà họ Đào (quê ở Văn Giang, Hưng Yên) gọi Duy Thìn (Lê Ý Tông) là Lê Duy Mật là chú ruột.
Lê Hiển Tông tên huý là Duy Diêu, là ông vua trị vì lâu thứ 2 trong lịch sử phong kiến nước ta 46 năm, và thọ 70 tuổi.
Nhờ có tài giúp đỡ của Minh Vương Trịnh Giang nên mười năm sau đất nước trở lại bình yên, dân được an cư lạc nghiệp, được ca ngợi là thời thái bình.
Tháng Giêng năm 1764, Hiển Tông lập Duy Vĩ làm Thái tử. Năm 1767 Trịnh Giang mất, Trịnh Sâm lên thay làm nguyên soái Tĩnh Đô Vương, tháng 3 năm 1769, Trịnh Sâm truất ngôi Thái tử của Duy Vĩ rồi bắt giam vào ngục. Tháng 8 năm 1769, Trịnh Sâm giả mệnh Vua truất Thái tử làm thứ dân rồi vẫn giam ở ngục, lập Duy Cận con thứ của Lê Hiển Tông làm Thái tử.
Tháng 12-1771, Trịnh Sâm sai giết Thái tử Duy Vĩ, đến tháng Giêng năm 1783 lập Duy Kỳ làm Hoàng Thái Tôn, truất Duy Cận làm Sùng Nhượng công.
16. Lê Mẫn Đế (Chiêu Thống) (1787-1788):
Niên hiệu: Chiêu Thống (1787-1788)
Lê Chiêu Thống tên huý là Duy Kỳ (còn tên khác là Lê Tư Khiêm), cháu đích tôn của Lê Hiển Tông.
Duy Kỳ được quân tam phủ đưa từ trại giam về ép vua và Chúa Trịnh Khải lập làm Hoàng Thái Tôn.
Tháng 7 năm 1786, trước khi vua Lê Hiển Tông mất đã cho gọi Thái tôn Duy Kỳ vào trối lời truyền ngôi. Duy Kỳ vừa lạy vừa khóc xin nhận mệnh. Lúc đó, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đã cưới công chúa Ngọc Hân.
Khi Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ rút quân về Phú Xuân (Huế) thì các hào mục ở các nơi nổi dậy cát cứ. Trịnh Bồng cũng trở lại kinh đô Thăng Long tự lập làm nguyên soái Án Đô Vương và lấn át Nhà Vua như trước, khiến cho triều chính rối ren, chém giết lẫn nhau. Nguyễn Huệ lại phải kéo quân ra Bắc dẹp loạn, chiêu tập các cựu thần văn võ nhà Lê, lấy Sùng Nhượng Công Lê Duy Cận đứng làm Giám quốc và giao cho Ngô Văn Sở làm Đại đô đốc ở Thăng Long, rồi Nguyễn Huệ lại rút quân về Phú Xuân.
Để khôi phục lại Lê Chiêu Thống, tháng 7-1788, Hoàng Thái hậu nhà Lê sang cầu viện nhà Mãn Thanh.
Dựa vào thế quân Mãn Thanh, Lê Chiêu Thống trở lại kinh đô Thăng Long đã trả thù tàn bạo những người theo Tây Sơn.
Mồng 5 Tết năm Kỷ Dậu (1789), quân đội Tây Sơn do Hoàng đế Quang Trung trực tiếp chỉ huy kéo ra Bắc đã đánh tan 29 vạn quân xâm lược Mãn Thanh ở gò Đống Đa giành độc lập cho tổ quốc ta. Lê Chiêu Thống, vua bán nước, đã cùng 25 bầy tôi chạy theo tàn quân nhà Thanh sang Trung Quốc.
Sau năm năm sống lưu vong nhục nhã trên đất Mãn Thanh. Tháng 10 năm Quý Sửu (1793), Lê Chiêu Thống chết ở Yên Kinh (Trung Quốc) thọ 28 tuổi, ở ngôi vua chưa được 3 năm.
Như vậy, nhà Lê Trung Hưng từ Lê Trang Tông đến vua Lê Chiêu Thống, trải qua 16 đời vua với 255 năm trị vì.
Phần đọc thêm
DANH NHÂN THỜI LÊ - MẠC
QUÂN SƯ NGUYỄN TRÃI
Nguyễn Trãi là khai quốc công thần bậc nhất của triều Lê Sơ. Người đã thảo "Bình Ngô đại cáo", một thiên cổ hùng văn bất hủ của dân tộc ta. Một danh nhân văn hoá thế giới, được cả thế giới tổ chức kỷ niệm (1980) nhân dịp 600 năm ngày sinh của Nguyễn Trãi.
Nguyễn Trãi sinh năm 1380, cha là Nguyễn Ứng Long (tức Phi Khanh) quê xã Chi Ngại, Chí Linh, Hải Dương sau dời về ở làng Nhị Khê, Thường Tín (Hà Tây ngày nay), dạy học ở làng Chi Ngãi, Côn Sơn, Chí Linh (Hải Dương). Mẹ là Trần Thị Thái, con gái quan Tư đồ Trần Nguyên Đán (cháu 4 đời của Thái sư Trần Quang Khải).
Tháng 3-1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, nhà Minh lấy cớ đó đưa quân sang xâm lược nước ta. Trương Phụ đem quân đánh bắt được cha con Hồ Quý Ly cho giải về Trung Quốc, chúng đem theo cả Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi cùng em là Nguyễn Phi Hùng khóc theo cha đến ải Nam Quan. Nguyễn Phi Khanh đã khuyên con nên về để "đền nợ nước, trả thù nhà!".
Nghe theo lời cha dạy, Nguyễn Trãi trở về thì bị quân Minh bắt giam lỏng ở thành Đông Quan (Hà Nội) nhiều năm, Hoàng Phúc đã nhiều lần mua chuộc, dụ dỗ Nguyễn Trãi theo chúng, nhưng Nguyễn Trãi nhất định không nghe, chịu cảnh sống nghèo khổ bằng nghề dạy học để chờ thời cơ.
Sau Nguyễn Trãi đã cùng Trần Nguyên Hãn trốn vào Lam Sơn (Thanh Hoá) theo phò Lê Lợi. Nguyễn Trãi đã đem sách "Bình Ngô" dâng cho Lê Lợi, Sách “Bình Ngô” không nói đến đánh thành mà chỉ chú ý vào việc thu phục lòng người. Sách được Lê Lợi chấp nhận và là tư tưởng chỉ đạo suốt cả cuộc kháng chiến chống quân Minh.
Nguyễn Trãi được Lê Lợi tin dùng, cử làm quân sư, giữ luôn bên mình để bàn đại sự.
Theo kế sách của Nguyễn Trãi và sự thỉnh cầu của các tướng, ngày 2 tháng Giêng năm Mậu Tuất (7-2-1418), Lê Lợi xưng là Bình Định Vương phất cờ khởi nghĩa, mở đầu cuộc kháng chiến chống quân Minh kéo dài suốt 10 năm gian khổ, nằm gai nếm mật, vào sinh ra tử, lúc nào Nguyễn Trãi cũng ở bên cạnh Lê Lợi để bàn mưu định kế.
Cuộc kháng chiến trường kỳ đó là một cuộc chiến tranh nhân dân, dùng du kích chiến để tiêu hao sinh lực địch, nghĩa quân ngày một mạnh lên, đã dùng kế sách của Nguyễn Trãi: "Vây thành diệt viện". Quân ta bao vây thành Đông Quan, thuyết phục giặc đầu hàng. Nhà Minh sai tướng An Viễn hầu Liễu Thăng dẫn 10 vạn quân và Kiềm Quốc công Mộc Thạnh dẫn 5 vạn quân theo hai đường sang cứu viện.
Lê Lợi đã theo kế sách của Nguyễn Trãi cử Đại tư đồ Trần Nguyên Hãn hạ thành Xương Giang trước khi viện binh của Liễu Thăng đến. Sau đó, Trần Nguyên Hãn đã dẫn quân đến mai phục ở Chi Lăng.
Ngày 20 tháng 9 năm Đinh Mùi (1427), nghĩa quân đã chém được đầu Liễu Thăng ở núi Mã Yên, làm nên chiến thắng Chi Lăng đánh bại 10 vạn viện binh của nhà Minh.
Mười vạn viện binh của Liễu Thăng bị đại bại, đạo quân của Mộc Thạnh không đánh mà tan. Vương Thông bị vây trong thành Đông Quan, cùng kế phải "xin hoà".
Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã lấy đức hiếu sinh cấp lương thực cho 10 vạn quân Minh được an toàn rút về nước.
Năm 1428, cuộc kháng chiến chống quân Minh của nghĩa quân Lam Sơn đã giành được thắng lợi hoàn toàn. Nguyễn Trãi được Lê Lợi uỷ thác thảo chiếu "Bình Ngô đại cáo" (Bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của Tổ quốc ta).
Trong lễ mừng công ban thưởng sau chiến thắng giặc Minh, Nguyễn Trãi được phong tước Quan Phục hầu, chức Nhập nội hành khiển, Lại bộ thượng thư kiêm Quản công khu mật viện. Nhưng Nguyễn Trãi không được vua Lê Thái Tổ tin dùng nữa, nên những hoài bão lớn lao, muốn xây dựng xã hội thịnh trị như thời Nghiêu, Thuấn đều không được thực hiện.
Nguyễn Trãi đã xin cáo quan về nghỉ ở Côn Sơn, vui với rặng thông, rừng trúc, xa lánh triều đình lắm gian thần, nịnh hót. Ở Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã sáng tác rất nhiều thơ văn cho hậu thế.
Trước khi mất, có lẽ Lê Lợi đã nhận thấy lỗi lầm của mình, đã dặn lại Thái tử Nguyên Long phải trọng dụng Nguyễn Trãi, nên Lê Thái Tông đã vời Nguyễn Trãi về kinh đô giúp việc nước. Mặc dù tuổi đã cao, nhưng Nguyễn Trãi vẫn hăng hái đem hết tài trí để phục vụ cho dân, cho nước.
Nhưng không ngờ, một sự kiện bi thảm nhất dưới triều Lê là cái chết đột ngột của vua Lê Thái Tông, gây ra vụ án oan nghiệt giáng xuống Nguyễn Trãi và gia đình ông vào tháng 8 năm 1442 mà sử xưa gọi là vụ án "Lệ chi viên" (vụ án vườn vải).
Ngày 27 tháng 7 năm 1442, Lê Thái Tông đi tuần ở miền Đông, duyệt quân ở thành Chí Linh, Nguyễn Trãi đón vua ngự ở chùa Côn Sơn, nơi ở của Nguyễn Trãi. Ngày 4 tháng 8, Vua về đến Lệ chi viên thuộc huyện Gia Bình (nay là Gia Lương, Bắc Ninh). Cùng đi với Vua có Nguyễn Thị Lộ, người thiếp của Nguyễn Trãi, khi ấy đã vào tuổi 40 được vua rất yêu quý vì sắc đẹp, văn thơ hay. Khi ở Lệ chi viên, vua đột ngột mất tại đó. Các quan bí mật đưa về kinh đô, nửa đêm ngày 6 tháng 8 mới phát tang.
Triều đình đã quy cho Nguyễn Thị Lộ tội giết vua. Nguyễn Trãi và gia đình bị án "tru di tam tộc"rất thảm thương.
Hai mươi năm sau, kể từ khi Nguyễn Trãi bị hại, vua Lê Thánh Tông đã xuống chiếu tẩy oan cho Nguyễn Trãi và cấp cho con cháu Nguyễn Trãi 100 mẫu ruộng để dùng vào việc thờ cúng vị "khai quốc công thần" bị chết oan.
Trong khúc "Quỳnh uyển ca", vua Lê Thánh Tông viết:
"Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo"
(Lòng Ức Trai sáng như sao Khuê)
Nguyễn Trãi là nhà tư tưởng vĩ đại, nhà chiến lược thiên tài, nhà hiền triết uyên thâm. Ông đã cống hiến cho dân tộc ta về tư tưởng dân chủ, quý trọng nhân dân. Đó là tư tưởng chính trị tiến bộ. Là nhà chiến lược, ông đề xuất những tinh hoa về “thế” và “thời” để ít có thể thắng nhiều, nhỏ có thể thắng lớn. Là nhà hiền triết, ông đã biết kết hợp khách quan với chủ quan, biết vận dụng điều kiện, hoàn cảnh và tạo ra sức mạnh để đánh thăng quân xâm lược.
Nguyễn Trãi đã để lại cho nhân dân ta những tinh hoa văn hoá tiến bộ.
TƯỚNG QUÂN TRẦN NGUYÊN HÃN
Trần Nguyên Hãn là một trong những người khai quốc công thần bậc nhất của triều Lê Sơ.
Trần Nguyên Hãn là con Trần Án, cháu nội của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán.
Để mưu việc cướp ngôi nhà Trần, Hồ Quý Ly đã thẳng tay sát hại tôn tộc nhà Trần. Trước hoạ tru diệt huyết thống, năm Ất Sửu (1385), bà Lê Thị Hoàn đang lúc bụng mang dạ chửa đã phải chạy lên lánh nạn ở trang Sơn Đông ngay sau khi chồng là Trần án và con trai cả bị Hồ Quý Ly sát hại. Bà cầu mong đứa con trong bụng sẽ là đứa con trai có tài cao, đức rộng, mai sau có thể rửa được thù nhà. Mong ước ấy bước đầu đã đạt được. Bà sinh Trần Nguyên Hãn vào lúc gia đình tan nát, sống trong cảnh thiếu thốn. Mặc dù là quý tộc nhưng bà không quản nắng mưa, tần tảo để nuôi con nên người.
Trần Nguyên Hãn từ bé đã thông minh xuất chúng, học đâu nhớ đấy và ngày càng tỏ rõ là người có chí lớn. Bà đã rau cháo nuôi con đi học, mua binh thư cho con nghiền ngẫm, bà thường kể cho con nghe về công lao to lớn của tổ tông và mối thù nhà, bà khuyên dạy Trần Nguyên Hãn phải chịu khó rèn văn, luyện võ.
Trần Nguyên Hãn lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, quân Minh đã chiếm được nước ta, chúng thi nhau cướp bóc, giết hại dân lành. Nhiều lúc Trần Nguyên Hãn đã bầm gan tím ruột, nhưng cố nuốt hận, ra sức học tập văn võ, binh thư để mong mai sau "đền nợ nước, trả thù nhà".
Thấy con đã trưởng thành và có chí lớn, bà Lê Thị Hoàn đã trao cho con "thanh kiếm gia truyền" của cụ tổ bảy đời là Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải.
Bà nghiêm nghị nhìn con, nói:
- Cha con quý thanh bảo kiếm này hơn cả tính mạng mình. Cụ tổ bảy đời đã dùng nó để đánh giặc Nguyên - Mông. Nay giặc Minh sang giày xéo đất nước, giết hại dân mình, con là người có chí, có tài, hãy biết giữ lấy nó, làm rạng danh cho tổ tông.
Trần Nguyên Hãn đã quỳ xuống đỡ lấy kiếm quý, giọng nghẹn ngào nói:
- Con hiểu lòng mẹ. Con sẽ không để danh tiếng của thanh bảo kiếm này mai một. Con sẽ mài cho nó thêm sắc và dùng vào việc đại nghĩa.
Trần Nguyên Hãn bí mật chiêu tập trai tráng trong vùng Sơn Đông, lấy Rừng Thần làm nơi luyện tập để chờ thời cơ đánh giặc cứu nước.
Năm 1415, Trần Nguyên Hãn dẫn đầu nghĩa quần Rừng Thần hạ được thành Tam Giang, làm cho quân Minh phải kinh hồn bạt vía. Nghĩa quân của Trần Nguyên Hãn làm chủ cả vùng Bạch Hạc (Vĩnh Phú).
Gần tết năm Mậu Tuất (1418), giữa lúc Lê Lợi, Nguyễn Trãi và trên ba chục võ tướng đang dốc sức cho ngày khởi nghĩa thì tin vui chợt đến: Danh tướng Trần Nguyên Hãn, người đã từng làm cho quân Minh kinh hồn bạt vía, đem 200 quân cùng hàng trăm ngựa chiến từ vùng Bạch Hạc về tụ nghĩa với nghĩa quân Lam Sơn. Lê Lợi cùng các tướng thân ra ngoài đón Trần Nguyên Hãn và nghĩa quân Rừng Thần.
Trần Nguyên Hãn đem quân theo về phò Lê Lợi đã có nhiều đóng góp to lớn cho cuộc kháng chiến chống quân Minh.
Theo sáng kiến của Trần Nguyên Hãn, một mặt đánh chiếm Nghệ An, Thanh Hoá, mặt khác Trần Nguyên Hãn được Lê Lợi cử đem một nghìn quân đánh chiếm Tân Bình, Thuận Hoá để mở rộng địa bàn hoạt động và để nghĩa quân tránh thế bị đánh cả hai đầu. Dưới sự chỉ huy tài giỏi của Trần Nguyên Hãn, chỉ trong ít ngày, toàn bộ vùng Tân Bình, Thuận Hoá được khôi phục. Theo lệnh của Trần Nguyên Hãn, nghĩa quân lấy kho lương của giặc cấp phát cho dân đang bị nạn đói. Nhân dân trong vùng vô cùng cảm ơn cứu mệnh của nghĩa quân Lam Sơn, hâm mộ tài đức của Trần Nguyên Hãn, hai vạn trai tráng khắp nơi kéo đến xin theo nghĩa quân.
Trong đợt phản công đánh quân Minh, Trần Nguyên Hãn được cử thống lãnh các lực lượng thuỷ binh đánh mũi phía Đông. Lê Lợi tự chỉ huy đại quân đánh mũi phía Tây, cả hai cánh quân phối hợp đánh dốc vào Đông Quan giết được nhiều giặc, buộc Vương Thông phải rút vào thành cố thủ.
Để giải vây thành Đông Quan, Minh Tuyên Đức đã cử Liễu Thăng và Mộc Thạch đem 15 vạn binh chia làm 2 đạo sang cứu viện. Lập tức Lê Lợi cho triệu các tướng đến bản doanh, rồi theo kế của quân sư Nguyễn Trãi, quyết định:
- Đánh thành Đông Quan lúc này là hạ sách, thành kiên cố vững chắc đánh hàng tháng, hàng năm không hạ nổi, quân ta sức mệt, chí nản. Nếu viện binh của giặc đến thì mặt trước mặt sau ta đều bị giặc đánh, đó là con đường nguy. Sao bằng nuôi lấy sức quân, giữ lấy nhuệ khí để đợi viện binh giặc. Viện binh giặc bị phá thì quân trong thành tất phải hàng. Làm một việc được cả hai, đó mới là toàn kế vậy!
Nguyễn Trãi bàn thêm:
- Trong hai đạo viện binh thì đạo của An viễn hầu Liễu Thăng cậy có quân lắm, ngựa nhiều cần phải dốc sức đánh trước. Muốn diệt được đạo quân này, trước hết phải hạ được thành Xương Giang đã. Bởi vì thành này nằm trên lộ Lạng Sơn đến Đông Quan. Đánh Xương Giang là đánh thông đường để đại binh ta lên Lạng Sơn chặn giặc.
Lê Lợi nóng nảy:
- Ta đã phái các tướng Lê Sát, Lưu Nhân Chú phối hợp với quân dân Lạng Sơn, Khoái Châu vây đánh thành Xương Giang cùng với các tướng Trần Lựu, Lê Bôi đi đánh Khâu Ôn từ mấy tháng nay rồi. Thành Khâu Ôn đã hạ được mà thành Xương Giang thì chưa. Các tướng ấy sao nỡ phụ lòng ta đến thế?
Trần Nguyên Hãn nói:
- Tâu vương thượng, Xương Giang là một thành kiên cố. Tường thành cao và dày. Ngoài thành có hào sâu bốn bề bao bọc, địa thế lại hiểm trở.
- Quân giặc ở đấy có bao nhiêu? - Lê Lợi dịu giọng hỏi Trần Nguyên Hãn.
- Giặc không đông lắm. Nhưng tướng giặc gồm bọn Kim Dận, Lý Nhậm, Cố Phúc, Phùng Trí là bọn am hiểu binh thư, lại cố chết chống lại. Bọn giặc ấy cũng đã bắt hàng vạn sĩ dân vào thành làm bia đỡ đạn nên việc đánh thành thật là khó.
- Quan Tư đồ lại phải ra tay một phen mới được - Lê Lợi nói, dáng quả quyết - Phải hạ được thành Xương Giang trước khi viện binh của Liễu Thăng đến. Tình thế gấp lắm rồi. Quan Tư đồ hãy sửa soạn đi ngay.
Lại một lần nữa, Trần Nguyên Hãn vâng mệnh Lê Lợi đem quân đến một mặt trận khó khăn và quan trọng. Vừa đến Xương Giang, Trần Nguyên Hãn đã ra sức khích lệ quân dân quyết hạ thành bằng được. Là người tinh thông binh pháp và có tài dụng binh, sau khi đi xem xét địa thế, Trần Nguyên Hãn đã có một kế sách đánh thành rất táo bạo.
Ngày 8 tháng 9 năm Đinh Mùi (1427), kế đánh thành thần diệu đặt dưới quyền thống lĩnh của Trần Nguyên Hãn đã diễn ra nhanh chóng và quyết liệt. Với kế đánh kỳ diệu của Trần Nguyên Hãn, lòng dũng cảm vô song của dân chúng và nghĩa quân Lam Sơn, đã buộc giặc phải quỳ gối đầu hàng. Chiến trận diễn ra chưa đầy 1 giờ. Các tướng giặc đều bị bắt sống và bị giết trong đám loạn quân.
Tin thắng trận nhanh chóng bay về Đông Quan ngoài dự đoán của Lê Lợi và Nguyễn Trãi.
Lê Lợi phấn khởi nói:
- Đại Tư đồ Trần Nguyên Hãn không phụ lòng ta. Tài cầm quân của quan Đại Tư đồ quả là bản triều không ai sánh được. Ta không ngờ thắng nhanh đến thế. Ta lại phải phái quan Tư đồ lên Chi Lăng chặn Liễu Thăng một phen mới xong.
- Theo lệnh của Lê Lợi - Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn lại một lần nữa thể hiện tài năng cầm quân xuất chúng của mình. Ngày 20 tháng 9 năm Đinh Mùi, Liễu Thăng kiêu ngạo tự đốc xuất quân tiên phong từ ải Pha Luỹ tràn xuống Chi lăng. Lập tức Trần Nguyên Hãn, Lê Sát tung quân ra phục đánh, chém được Liễu Thăng ở núi Mã Yên. Các trận đánh diệt viện binh diễn ra suốt tuyến đường từ Chi Lăng về Xương Giang. Nghĩa quân Lam Sơn dưới sự chỉ huy của viên dũng tướng tài giỏi, dày dạn kinh nghiệm, chỉ trong 25 ngày đã đánh bại 10 vạn viện binh hùng tướng mạnh của nhà Minh. Trong chiến công vang dội ấy, Trần Nguyên Hãn nổi lên như ngôi sao sáng chói.
Cuộc kháng chiến chống quân Minh hoàn toàn thắng lợi sau 10 năm gian khổ, vào sinh ra tử có công lao to lớn của Trần Nguyên Hãn. Tháng 11 năm Mậu Thân (1428), Lê Lợi mở đại hội các quan văn võ luận công ban thưởng, đã phong cho Trần Nguyên Hãn chức Tả Tướng quốc (chức quan võ cao nhất lúc đó).
TRÌNH QUỐC CÔNG NGUYỄN BỈNH KHIÊM
Người được dân gian truyền tụng và suy tôn là "Nhà tiên tri" số một của nước ta là Trạng Trình, vì ông đã cho ra đời hàng loạt những lời tiên tri cho hậu thế mà người đời gọi là "Sấm Trạng Trình". Một điều khá lý thú là cách đây ngót 500 năm, ngay trang đầu của tập "Trình tiên sinh quốc ngữ" của Trạng Trình có ghi: "Việt Nam khởi tổ xây nền", ông đã khẳng định nước ta tên là Việt Nam. Một sự tiên đoán vô cùng chính xác.
Trạng Trình mà nhân dân thường gọi đó là Nguyễn Bỉnh Khiêm, tên huý là Văn Đạt, vì ông đỗ Trạng nguyên, sau được phong là Trình Quốc công.
Nguyễn Bỉnh Khiêm người làng Trình Tuyền (Trung Am) huyện Vĩnh Lạc (nay là Vĩnh Bảo, Hải Phòng). Thân phụ ông là Thái bảo Nghiêm quận công Nguyễn Văn Định, thân mẫu là bà Nhữ Thị Thục, con gái quan Thượng thư Nhữ Văn Lan, là người giỏi văn thơ và am hiểu lý số.
Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm Tân Hợi (1491) đời vua Lê Thánh Tông, mặt mũi khôi ngô, tuấn tú, tư chất khác thường, một tuổi ông đã nói sõi, lên năm tuổi được mẹ dạy cho kinh sách, truyền miệng cho thơ văn chữ Nôm, ông học đâu nhớ đấy, không quên chữ nào.
Lớn lên được theo học cụ Bảng nhãn Lương Đắc Bằng ở làng Lạch Triều, huyện Hoằng Hoá (Thanh Hoá). Ông đã sáng dạ, thông minh lại nết na, chăm chỉ học hành nên được thầy rất khen ngợi.
Vì tình hình đất nước không ổn định nên mãi đến năm Giáp Ngọ (1534), khi 43 tuổi Nguyễn Bỉnh Khiêm mới đi thi, đỗ ngay Giải Nguyên, năm sau đi thi Hội, lại đỗ Hội nguyên, đi thi Đình, đỗ ngay Trạng nguyên.
Ông làm quan cho nhà Mạc được tám năm, đến đời Mạc Phúc Hải, thấy triều đình lắm kẻ gian thần, lộng quyền, đục khoét, ông dâng sớ chém mười tám lộng thần đều là những kẻ quyền quý cả. Vua Mạc không nghe. Ông trả lại mũ áo, cáo quan về mở trường dạy học. Ông dựng một cái am nhỏ bên hồ đặt tên là am Bạch Vân và lấy tên hiệu là Bạch Vân cư sĩ. Ông vốn là người tha thiết với việc dân, việc nước, song vì triều đình đổ nát, trăm quan hư hỏng, ông không muốn đem thân vào chốn đua chen nịnh hót, dấn mình vào đám bùn nhơ ô uế. Bởi thế phải xa lánh công danh vê quê ẩn dật, ông vẫn đem hết tài trí và tâm huyết truyền cho đám học trò, ngầm mong họ sẽ thay ông giúp đời cứu nước. Nhiều học trò danh tiếng của ông như Lương Hữu Khánh, Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Dữ, Trường Thời Cử, sau này quả đã nối được chí thầy. Dân gian truyền tụng nhiều về những câu nói có tính chiến lược của Trạng Trình đã giúp cho các vua chúa thời ông sống được vẹn toàn.
Đầu tiên với vua Lê - chúa Trịnh:
Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, đã diệt gần hết tôn tộc nhà Lê. Sau có cựu thần nhà Lê là Nguyễn Kim đã khởi binh ở Sầm Nưa (Lào) chống lại nhà Mạc. Nguyễn Kim đã tìm được một người cháu (hậu duệ của vua Lê Thái Tổ) đem về lập làm vua tức là Lê Trang Tông.
Năm 1545, Nguyễn Kim bị hàng tướng nhà Mạc đánh thuốc độc chết, binh quyền nằm cả vào tay con rể là Trịnh Kiểm.
Năm 1556, Lê Trung Tông (con Lê Trang Tông) mất lại không có con nối ngôi, Trịnh Kiểm trù trừ tìm người dòng dõi nhà Lê lên nối ngôi, vì muốn tự mình lên ngôi vua. Không biết nên thế nào cho phải, Trịnh Kiểm bèn bàn với Phùng Khắc Khoan; Phùng Khắc Khoan cũng phân vân, mới sai người đi Vĩnh Lại hỏi thầy mình là Trạng Trình. Nghe người đó trình bày xong, Trạng Trình không nói gì cả, chỉ ngoảnh lại bảo người nhà rằng:
- Năm nay lúa không tốt, vì thóc giống không chắc. Chúng bay nên tìm thóc cũ gieo thì tốt.
Nói xong, Trạng chống gậy đi chơi chùa. Khách đi theo, Trạng nói với nhà sư chứ không nói với khách:
- Nhà sư chăm cúng Phật mà ăn oản nhé.
Khách về nói lại với Phùng Khắc Khoan, Phùng Khắc Khoan trình bày với Thái sư Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm hiểu thâm ý của Trạng Trình khuyên là hãy tôn phò nhà Lê lên làm vua cho thuận lòng dân, bèn sai người đến làng Bố Vệ rước Lê Duy Bang là cháu 6 đời của Lê Trừ (anh thứ hai của Lê Lợi) về lập làm vua, tức là Lê Anh Tông.
Sau là với chúa Nguyễn:
Từ khi thay bố vợ là Nguyễn Kim cầm binh quyền, Trịnh Kiểm sợ hai em vợ là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng tranh giành quyền bính, nên Trịnh Kiểm ám hại Nguyễn Uông và ngấm ngầm định ám hại nốt Nguyễn Hoàng. Nguyễn Hoàng sợ hãi, sai người tìm đến hỏi Trạng Trình xem nên làm thế nào để thoát khỏi bàn tay hãm hại của Trịnh Kiểm.
Được hỏi nhưng Trạng Trình không trả lời ngay, chỉ chống gậy ra sân, ngắm hòn non bộ, nhìn đàn kiến đang "leo núi" mà nói bâng quơ rằng: "Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân", (một dải núi Hoành Sơn có thể dung thân muôn đời).
Nguyễn Hoàng hiểu ý mới về nói với chị gái (vợ Trịnh Kiểm) xin cho mình vào trấn thủ đất Thuận Hoá. Trịnh Kiểm nghĩ Thuận Hoá là nơi biên cương cùng đường, tuyệt lộ, đất cằn, người thưa, dẫu Nguyễn Hoàng có phản nghịch thì chẹn đường, sai tướng đánh dẹp là xong, còn hơn giết đi thì sợ thất nhân tâm, mà giữ lại thì lo ngay ngáy ngày đêm, nên đã đồng ý cho Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hoá vào năm Mậu Ngọ (1558).
Không ngờ Nguyễn Hoàng tự nhún mình, khai khẩn đất hoang, mở mang bờ cõi về phía Nam, một mặt thần phục họ Trịnh, thỉnh thoảng còn cho người ra Thanh Hoá xin viện binh đánh Chiêm Thành nữa. Đến khi đủ lực lượng, họ Nguyễn mới ra mặt tuyên chiến với họ Trịnh từ năm 1627, gây dựng nên cơ nghiệp các chúa Nguyễn ở Đàng Trong.
Mùa đông năm Ất Dậu (1585), Nguyễn Bỉnh Khiêm lâm bệnh nặng. Nghe tin Trạng Trình bệnh nặng, vua Mạc Mậu Hợp cử quan khâm sai về hỏi xin ý kiến Trạng về tương lai. Trạng Trình nói: "Cao Bằng tuy tiểu, khả dung sổ thế" (Cao Bằng tuy nhỏ cũng được vài đời).
Quả nhiên sau này bị thất bại, nhà Mạc đã chạy lên Cao Bằng, và còn tồn tại ở đấy được đến năm 1677 mới mất hẳn. Ngày nay ở Cao Bằng có nhiều người dân tộc thiểu số mang họ Mạc, chính là con cháu của nhà Mạc xưa.
Trạng Trình mất, thọ 95 tuổi. Lễ tang ông có quan phụ chính triều đình là Ứng Vương Mạc Đôn Nhượng dẫn đầu các quan đại thần về dự. Việc vua Mạc cử người được Nhà Vua coi như cha về dự lễ tang nói lên sự trân trọng rất lớn của nhà Mạc với Trạng Trình. Trong buổi lễ tang ấy, Ứng Vương đã thay mặt Vua truy tặng Nguyễn Bỉnh Khiêm từ tước Trình Tuyền hầu lên tước Thái phó Trình Quốc công.
LÊ QUÝ ĐÔN
Lê Quý Đôn là nhà văn hóa lớn Việt Nam thời Hậu Lê, thuở nhỏ có tên là Lê Danh Phương, sau đổi là Lê Quý Đôn, tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường. Quê làng Duyên Hà, huyện Diên Hà, phủ Tiên Hưng, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Thái Bình).
Ông xuất thân trong một gia đình khoa bảng lâu đời, thân phụ là Lê Phú Thứ làm quan triều Lê. Thuở nhỏ ông nổi tiếng thông minh, có trí nhớ phi thường được nhiều người đương thời xem là thần đồng.
Năm Quý Hợi (1743) đỗ Giải nguyên, năm Nhâm Thân (1752) đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhị danh (Bảng nhãn). Từ thi Hương đến thi Hội đều đỗ đầu. Sau khi thi đỗ được bổ Thị độc tòa Hàn Lâm, sung Tư nghiệp Quốc Tử giám. Năm Canh Thìn (1760) làm Phó sứ đi sứ sang nhà Thanh (Trung Quốc). Học vấn văn chương được cả người Thanh và sứ thần Triều Tiên ca ngợi, khi về được phong tước Dĩnh Thành bá, rồi thăng Hàn Lâm viện thừa chỉ, Đốc đồng Hải Dương. Sau chuyển về Kinh làm Tổng tài Quốc sự quán cùng Nguyễn Hoàn khảo duyệt phần Tục biên Quốc sử.
Năm Quý Tỵ (1773) được bổ Phó Đô ngự sử, rồi thăng Hữu thị lang bộ Công. Năm 1776 được cử làm Tham tri Tham Tán quân cơ các đạo Thuận Hóa - Quảng Nam. Sau đó đổi về Thăng Long làm Hành Tham tụng tại triều, được phong tước Dĩnh Thành hầu.
Ngày 2-6-1784 (năm Cảnh Hưng thứ 45), ông mất tại chức, thọ 58 tuổi. Sau khi mất được truy tặng Thượng thư bộ Công tước Dĩnh Thành hầu.
Lê Quý Đôn là một học giả uyên bác, đa dạng và sung mãn nhất của Văn hóa Việt Nam. Giới nghiên cứu thế giới (Pháp) xem ông là nhà bác học về lĩnh vực văn hóa của nước ta. Công trình trước tác và sáng tác của ông gồm một thư tịch đồ sộ về nhiều bộ môn: Lịch sử, Địa lý, Văn học, Ngôn ngữ học, Triết học….
Các tác phẩm chính gồm:
- Quốc sử tục biên (8 quyển)
- Đại Việt thông sử hay Lê triều thông sử (30 quyển)
- Phủ biên tạp lục (7 quyển)
- Quần thư khảo biện (4 quyển)
- Xuân Thu lược luận
- Bắc sử thông lục (3 quyển)
- Toàn Việt thi lục (3 quyển)
- Vân đài loại ngữ (4 quyển)
- Quế Đường văn tập (3 quyển)
- Dịch kinh phủ thuyết (6 quyển)
- Kiến văn tiểu lục (3 quyển)
- Danh thần lục (2 quyển)
- Thư kinh diễn nghĩa (3 quyển)
- Toàn việt văn tập (20 quyển)
- Hoàng việt vân hải (10 quyển)
- Quế Đường thi tập (4 quyển)
và một số thơ, thơ phú bằng chữ Nôm.
Trong Lịch triều hiến chương loại chí, khi bình luận về ông, Phan Huy chú viết: "Ông (Lê Quý Đôn) tư chất khác thường, thông minh hơn người… bình sinh làm sách rất nhiều, khi bàn về kinh sử thì sâu sắc, rộng rãi, mà nói đến điển cố thì đầy đủ rõ ràng. Cái sở trường của ông vượt hơn cả, nổi tiếng ở trên đời".
(Theo Từ điển NVLSVN)
THỜI KỲ TRỊNH NGUYỄN PHÂN TRANH
A. CÁC CHÚA TRỊNH Ở ĐÀNG NGOÀI
1. Thế tổ Minh khang Thái vương (Trịnh Kiểm) (1545-1570)
Trịnh Kiểm người làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá. Truyện kể rằng: Trịnh Kiểm mồ côi cha từ nhỏ, nhà nghèo, hai mẹ con rau cháo nuôi nhau, khi mẹ già thì Kiểm đi làm thuê, gánh mướn nuôi mẹ. Một hôm đi làm về, không thấy mẹ, Kiểm bổ đi tìm, đến sáng thì được tin mẹ đã chết đuối ở vực gần nhà, khi ra vực, Kiểm thấy mối đã đùn thành gò rồi, Kiểm buồn lắm bỏ làng ra đi, và nương nhờ làm gia tướng cho Thái phó Nguyễn Kim.
Kiểm không được học hành nhiều, nhưng rất thông minh, can đảm và mưu lược hơn người. Nguyễn Kim mến tài đem con gái yêu là Ngọc Bảo gả cho Trịnh Kiểm. Năm 1533, Nguyễn Kim sai Trịnh Kiểm đem quân sang Ai Lao đón Lê Duy Ninh về lập làm vua là Lê Trang Tông. Vua thấy Trịnh Kiểm tướng mạo khác thường, bèn phong cho là Đại tướng quân, lúc đó Kiểm 37 tuổi.
Năm Ất Tỵ (1545), Nguyễn Kim bị hàng tướng nhà Mạc đánh thuốc độc chết, binh quyền về tay Trịnh Kiểm.
Vua Lê Trang Tông ở ngôi chí tôn nhưng quyền hành đều do Trịnh Kiểm nắm giữ.
Năm 1548, Trang Tông mất, Trịnh Kiểm lập Thái tử Huyên (con Trang Tông) lên nối ngôi là Trung Tông. Vua Trung Tông cũng chỉ ở ngôi được 8 năm thì mất khi mới 22 tuổi, không có con nối ngôi. Trịnh Kiểm muốn nhân dịp này tự lập làm vua, nhưng còn phân vân, bèn sai Phùng Khắc Khoan đi hỏi ý kiến Trạng Trình. Cụ Trạng trả lời với thâm ý khuyên Trịnh Kiểm hãy tôn phò nhà Lê cho thuận lòng dân. Hiểu ý, Trịnh Kiểm đã sai người đến làng Bố Vệ rước Lê Duy Bang về lập làm vua tức là Lê Anh Tông. Từ khi nắm quyền bính, Trịnh Kiểm ra sức củng cố lực lượng, thu hút nhân tài, nên Nam triều ngày càng mạnh lên. Nhà Mạc (Bắc Triều) sai Đại tướng Mạc Kính Điển đem quân vào đánh Thanh Hoá tới 10 lần, ngược lại Trịnh Kiểm cũng kéo quân ra đánh Sơn Nam trước sau 6 lần. Nam triều đã lấy được các huyện Yên Mô, Yên Khang, Phụng Hoá, Gia Viễn. Năm Kỷ Tỵ (1569), vua Lê gia phong cho Trịnh Kiểm làm Thượng tướng Thái quốc công và tôn là Thượng phụ.
Tháng 02 năm Canh Ngọ (1570), Trịnh Kiểm mất, được truy tôn làm Minh Khang Thái vương, thuỵ là Trung Huân.
Trịnh Kiểm nắm quyền của Nam Triều 26 năm trải qua ba đời vua, thọ 68 tuổi.
2. Bình An Vương (Trịnh Tùng) (1570-1623):
Khi Trịnh Kiểm chết, vua Lê Anh Tông trao quyền bính cho Trịnh Cối (con vợ cả của Trịnh Kiểm). Nhưng Trịnh Cối ham mê tửu sắc, ngày càng kiêu ngạo, càn rỡ, các tướng sĩ không phục.
Tháng 4 năm Canh Ngọ (1570), các tướng như Lê Cập Đệ, Trịnh Vĩnh Thiệu, Trịnh Bách, Phan Công Tích đem quân về với Trịnh Tùng. Trịnh Tùng là con thứ của Trịnh Kiểm với Ngọc Bảo (con gái Nguyễn Kim). Tùng khôi ngô tuấn tú, có tài thao lược, trọng nhân tài nên được tướng sĩ yêu mến.
Trịnh Tùng cùng các tướng sĩ phò giá Vua Lê Anh Tông dời hành tại vào thành Vạn Lại, chia quân canh giữ để đề phòng Trịnh Cối. Trịnh Cối đích thân đem hơn một vạn quân đến bao vây thành Vạn Lại.
Hai bên đánh nhau giằng co bảy ngày, vua Lê Anh Tông đứng ra hoà giải cũng không được. Cuối cùng Trịnh Cối phải rút quân về Biện Thượng.
Được tin anh em họ Trịnh đánh nhau, tháng 8 năm Canh Ngọ (1570), vua Mạc sai Mạc Kính Điển đem 10 vạn quân và 700 chiến thuyền vào đánh Thanh Hoá. Trịnh Cối lo sợ, vội đem mẹ, vợ con và các thuộc tướng đến hàng nhà Mạc. Mạc Kính Điển phong cho Cối làm Trung Lương hầu.
Vua Lê Anh Tông phong cho Trịnh Tùng làm Trưởng quận công, Tiết chế thuỷ bộ chủ dinh cầm quân đánh Mạc.
Tháng 12 năm đó, sau 4 tháng tấn công vào Thanh Hoá không thắng được. Mạc Kính Điển phải rút quân về Bắc. Trịnh Cối cùng mẹ và vợ con chạy theo quân Mạc.
Năm Nhâm Thân (1572), Lê Cập Đệ mưu giết Trịnh Tùng bị lộ, Lê Cập Đệ bị Trịnh Tùng giết chết. Vua Lê Anh Tông sợ hãi, đang đêm đem 4 hoàng tử chạy vào thành Nghệ An.
Trịnh Tùng đưa hoàng tử thứ 5 của vua Lê là Duy Đàm lên làm vua, hiệu là Lê Thế Tông. Sau hơn mười năm liên tục mở các cuộc tấn công ra Bắc, cuối cùng Trịnh Tùng đã đánh bại được nhà Mạc, khôi phục được cố đô Thăng Long vào năm 1592.
Năm Ất Mùi (1595), Trịnh Tùng đón vua vào Thăng Long và bắt đầu tổ chức bộ máy cai trị theo quy mô của bậc đế vương. Trịnh Tùng sai sứ sang nhà Minh xin sắc phong cho vua Lê là An Nam đô thống sứ, và buộc Vua Lê phong cho mình làm Đô nguyên suý Tổng quân quốc chính thượng phụ, tước Bình An Vương.
Trịnh Tùng cho lập phủ liêu riêng gồm đủ cả lục phiên tương đương với lục bộ của triều Vua. Phủ Chúa toàn quyền đặt quan chức, thu thuế, bắt lính... Vua chỉ có mặt trong những dịp long trọng đặc biệt như tiếp sứ Tàu mà thôi. Từ đấy bắt đầu thời kỳ "Vua Lê - Chúa Trịnh". Con chúa Trịnh được quyền thế tập gọi là Thế Tử.
Trước sự hống hách, lộng quyền của chúa Trịnh, vua Lê Kính Tông đã cùng với con Trịnh Tùng là Trịnh Xuân mưu giết Trịnh Tùng, việc bại lộ, Trịnh Tùng bức vua thắt cổ chết, lúc đó mới 32 tuổi. Tùng đưa thái tử Duy Kỳ lên ngôi vua là Lê Thần Tông.
Ngày 20 tháng 6 năm Quý Hợi (1623), Trịnh Tùng mất, cầm quyền 53 năm, thọ 74 tuổi.
3. Thanh Đô Vương (Trịnh Tráng) (1623-1657):
Mạc Kính Khoan đang chiếm xứ Cao Bằng nghe tin Trịnh Tùng chết, các con (Trịnh Xuân, Trịnh Tráng) đánh nhau để giành ngôi chúa, liền từ Cao Bằng kéo hàng vạn quân xuống Gia Lâm, Trịnh Tráng phải rước vua Lê chạy vào Thanh Hoá.
Tháng 8 năm Quí Hợi (1623), Trịnh Tráng đem quân ra phá tan quân của Kính Khoan. Kính Khoan một mình chạy thoát thân. Trịnh Tráng lại rước vua Lê trở lại kinh đô, vua Lê phong cho Trịnh Tráng chức Nguyên suý thống quốc chính Thanh Đô Vương.
Tạm yên mặt Bắc, Trịnh Tráng lo đối phó mặt Nam. Lúc này ở Đàng Trong, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã ra mặt chống lại chúa Trịnh ở Đàng Ngoài.
Trịnh Tráng nhiều lần lấy danh nghĩa vua Lê đem quân đi đánh Phúc Nguyên nhưng quân Nguyễn lợi dụng địa thế hiểm trở, đắp luỹ dài chống cự quyết liệt, quân Trịnh không làm gì được, phải rút về.
Để thắt chặt thêm quan hệ gắn bó giữa nhà chúa và Vua Lê, Trịnh Tráng đem con gái của mình (đã lấy chồng có bốn con với chú họ của vua Lê), gả cho vua Lê, lập làm Hoàng hậu. Vua Lê đành phải chấp nhận.
Năm ất Dậu (1645), Trịnh Tráng xin vua Lê phong cho con thứ hai là Tây quận công - Trịnh Tạc làm Khâm sai tiết chế các sứ thuỷ bộ chủ dinh chương quốc quyền bính, tả tướng thái uý Tây quốc công và được quyền nối ngôi chúa.
Năm Đinh Dậu (1657), Trịnh Tráng mất thọ 81 tuổi, ở ngôi chúa 30 năm.
4. Tây Đô Vương (Trịnh Tạc) (1657-1682):
Trịnh Tạc là con thứ hai được cha chọn làm Nguyên suý chưởng quốc chính Tây Định Vương từ năm Quí Tỵ (1653), khi Trịnh Tráng đang còn sống. Sự không chọn Trịnh Toàn nối ngôi chúa đã dẫn đến mâu thuẫn ngấm ngầm giữa Toàn và Tạc.
Tháng 4 năm Định Dậu (1657), Trịnh Tạc đã sai đình thần tống ngục và tra hỏi Trịnh Toàn cho đến chết.
Năm Đình Mùi (1667), Trịnh Tạc tự phong Đại nguyên soái thượng sư Thái phụ Tây Đô Vương.
Năm Nhâm Tí (1672), Trịnh Tạc ép vua Lê đem quân vào đánh chúa Nguyễn một trận lớn ở châu Bố Chính, quân Trịnh chiếm được luỹ Trấn Ninh, quân Trịnh huy động 3 vạn quân vượt sông Gianh đánh vào cửa Nhật Lệ. Quân Nguyễn ra sức chống cự nhờ có hệ thống thành luỹ kiên cố, tháng 12 - 1672, Trịnh Tạc phải rút đại binh về chỉ để Lê Thời Hiến trấn giữ Nghệ An, từ đó Đàng Ngoài và Đàng Trong tạm ngừng chiến, lấy sông Gianh làm giới tuyến.
Tháng 7 năm Giáp Dần (1674), Trịnh Tạc xin vua Lê phong cho con là Trịnh Căn làm Nguyên soái.
Tháng 5 năm Nhâm Tuấn (1682), Trịnh Tạc mất, thọ 77 tuổi, ở ngôi chúa 25 năm.
5. Định Vương (Trịnh Căn) (1682-1709):
Trịnh Căn là con trưởng của Trịnh Tạc được nối ngôi chúa là Định Vương.
Dưới thời Trịnh Căn, chiến tranh Trịnh - Nguyễn đã tạm dừng. Trịnh Căn có điều kiện để củng cố bộ máy cai trị. Giúp việc cho chúa Trịnh lúc đó có nhiều người đỗ đạt cao như Nguyễn Danh Nho, Nguyễn Tông Quai, Nguyễn Quí Đức, Đặng Đình Tướng nên đã ổn định được xã hội, kinh tế được phát triển như nông nghiệp và thủ công nghiệp.
Bằng nhiều cố gắng ngoại giao, chúa Trịnh đã buộc nhà Thanh trả lại một số thôn ấp vùng biên giới mà họ đã lấn chiếm của ta, nhưng chưa được nhiều.
Chúa Trịnh Căn gặp nhiều trắc trở trong việc lập người kế nghiệp. Năm Giáp Tí (1684), Trịnh Căn phong cho con thứ là Trịnh Bách làm Tiết chế thay cho con cả là Vĩnh đã chết, nhưng đến năm Đinh Mão (1687), Trịnh Bách lại chết sớm. Trịnh Căn lại phong cho Trịnh Bính là cháu nội đích tôn (con Trịnh Vĩnh) nối ngôi, nhưng đến năm Quí Mùi (1703), Trịnh Bính cũng chết, Trịnh Căn lại phải phong cho chắt nội (con cả Trịnh Bính) là Trịnh Cương lên làm Tiết chế An Quốc Công.
Năm Kỷ Sửu (1709), Trịnh Căn mất. Chắt là Trịnh Cương lên nối ngôi. Trịnh Căn thọ 77 tuổi ở ngôi chúa 27 năm.
6. An Đô Vương (Trịnh Cương) (1709-1729):
Trịnh Cương lên ngôi chúa, được phong là Nguyên soái tổng quốc chính An Đô Vương năm 1709.
Tháng 9 năm Giáp Ngọ (1714), Trịnh Cương lại được tiến phong Đại nguyên soái tổng quốc chính Thượng sư An Đô Vương.
Trịnh Cương biết giữ mối quan hệ tốt với vua Lê, đồng thời chăm lo việc trị nước. Chúa trọng dụng ba đại thần rất trẻ nhưng có tài là Lê Anh Tuấn, Nguyễn Công Cơ và Nguyễn Công Hãng. Họ đã đưa ra chủ trương cải cách trên nhiều lĩnh vực về kinh tế, tài chính, thi cử, tổ chức hành chính.. . nhưng các cải cách tiến bộ đó đang được tiến hành thì Trịnh Cương mất.
Năm Kỷ Dậu (1729), Trịnh Cương đi vãng cảnh chùa Phật Tích rồi Như Kinh, bị bệnh, chết ngay tại đó, quan quân bí mật đưa về phủ Chúa phát tang. Tiếc thay vị chúa có nhiều tâm huyết với công cuộc cải cách kinh tế, chính trị đã mất ở tuổi 44, ở ngôi chúa 20 năm.
7. Uy Nam Vương (Trịnh Giang) (1729-1740):
Trịnh Giang là con cả Trịnh Cương. Khi Giang còn làm Thế tử, bảo phó của Giang là Nguyễn Công Hãng đã dâng một số nhận xét rằng: Giang là người ươn hèn không thể gánh vác được ngôi chúa. Trịnh Cương đã có ý thay ngôi Thế tử, nhưng chưa dứt khoát thì Trịnh Cương đột ngột mất, Trịnh Giang với tư cách là Thế tử lên nối ngôi chúa.
Tháng 4 năm Canh Tuất (1739) Giang tự tiến phong là Nguyên soái thống quốc chính Uy Nam Vương.
Chúa Trịnh Giang là kẻ vô cùng bạo ngược: sát hại công thần, giết vua Lê Duy Phường, lập vua Lê Ý Tông. Trịnh Giang ngày càng lấn át quyền vua, Trịnh Giang tha hồ ăn chơi trác táng. Một hôm, Trịnh Giang bị sét đánh gần chết nên mắc bệnh kinh hãi, sợ sấm sét. Bọn hoạn quan Hoàng Công Phụ cho đào đất làm Cung Thưởng Trì dưới hầm cho Trịnh Giang ở. Bọn hoạn quan tha hồ lũng đoạn triều chính. Các quan đại thần kế tiếp nhau bị giết hại, thuế khóa nặng nề, lòng dân ly tán. Các cuộc khởi nghĩa của nhân dân nổ ra khắp nơi.
Trước tình hình nguy ngập đó, Trịnh Thái Phi (mẹ Trịnh Giang và Trịnh Doanh) cho triệu quần thần đến đưa Trịnh Doanh lên thay Trịnh Giang để trừ họa nạn.
8. Minh Đô Vương (Trịnh Doanh) (1740-1767):
Năm Canh Thân (1740), Trịnh Doanh lên ngôi chúa lấy hiệu là Minh Đô Vương tiến tôn Trịnh Giang làm Thái Thượng Vương. Trịnh Doanh liền ban hành nhiều quyết định hợp lòng người, được quần thần và dân chúng ủng hộ. Chính sách cai trị dưới thời Trịnh Doanh khá chắc chắn và hoàn chỉnh. Nhiều sắc chỉ được ban hành dưới thời Trịnh Cương (đã bị Trịnh Giang bỏ) nay được thực hiện.
Trịnh Doanh chăm lo chính sự. Cho đặt ống đồng ở cửa phủ để nhận thư từ dân chúng tố giác việc làm sai trái của quan lại: Khi cần tuyển chọn và cất nhắc quan lại, Trịnh Doanh coi trọng thực tài nên trước khi bổ nhiệm ai người đó phải vào phủ đường yết kiến để chúa trực tiếp hỏi về việc là làm ai có khả năng mới trao cho chức quyền. Chúa thưởng phạt rất công minh. Nhiều danh sĩ xuất thân khoa bảng được trọng dụng, tiêu biểu là Lê Quí Đôn, Ngô Thì Sĩ...
Lịch sử đã ghi nhận những năm Trịnh Doanh cầm quyền ở Bắc Hà là thời kỳ đất nước ổn định và thịnh đạt.
Song, khi mới lên ngôi chúa, để dẹp loạn bằng mọi giá Trịnh Doanh đă mắc một sai lầm không thể tha thứ là đốt hết sổ sách thư từ, thu nhặt hết chuông khánh các chùa chiền để đúc binh khí.
Tháng Giêng năm Đinh Hợi (1767). Trịnh Doanh mất thọ 48 tuổi, ở ngôi chúa 27 năm.
9. Tĩnh Đô Vương (Trịnh Sâm) (1767-1782):
Trịnh Sâm là con trưởng của Trịnh Doanh. Năm Ất Sửu (1745) Trịnh Sâm được lập làm Thế tử. Trịnh Doanh cử hai tiến sĩ danh tiếng là Dương Công Chú và Nguyễn Hoàn làm tư giảng cho Trịnh Sâm.
Năm Đinh Hợi (1767), Trịnh Doanh mất, Trịnh Sâm lên ngôi chúa, tiến phong là Nguyên soái Tổng quốc chính Tĩnh Đô Vương...
Trịnh Sâm là người cứng rắn, thông minh, quyết đoán. Khi lên ngôi chúa, Trịnh Sâm cho sửa đổi kỷ cương, chính sự cả nước vì cho rằng phép tắc của triều đình trước là nhỏ hẹp, nay Sâm muốn làm to rộng hơn, nên phần nhiều tự quyết đoán, không theo phép cũ.
Năm Kỷ Sửu (1769), sau hai năm lên ngôi vì ghen ghét tài năng, đức độ và địa vị của Thái tử Duy Vĩ, Sâm đã vu tội cho Thái tử, sai người bắt giữ, truất ngôi và tống giam, chết trong ngục.
Năm Canh Mão (1770), sau khi đánh tan Lê Duy Mật, buộc Duy Mật tự tử, Trịnh Sâm kiêu mãn, cho mình có công lớn nên tự tiến phong là Đại nguyên soái tổng quốc chính, Thượng sư thượng phụ, Duệ đoán văn công võ đức Tĩnh Vương.
Năm Giáp Ngọ (1774), để khuếch trương thanh thế, Sâm sai Hoàng Ngũ Phúc làm thống tướng đem quân vào Nam đánh chúa Nguyễn, tháng 10 năm đó, Trịnh Sâm đích thân cầm quân kéo vào Thuận Hóa, chiếm được Thuận Hóa và đặt quan cai trị đất Thuận Quảng, trong đó có Lê Qúy Đôn, tác giả sách ''Phủ biên tạp lục".
Trịnh Sâm sau khi đã dẹp yên các cuộc khởi nghĩa, bốn phương yên ổn, kho đụn đầy đủ, dần dần sinh bụng kiêu căng: xa xỉ, kén nhiều thần phi, thị nữ, mặc ý vui chơi thỏa thích.
Đặng Thi Huệ là nữ tỳ của tiệp dư Trần Thị Vinh, ả mắt phượng mày ngài, vẻ người rất xinh đẹp và hấp dẫn. Trịnh Sâm trông thấy đem lòng yêu mến đặc biệt. Đặng Thị Huệ được sống với chúa như vợ chồng. Xe kiệu quần áo của ả đều được sắm sửa như của chúa.
Để chiều lòng người đẹp, mỗi năm cứ đến tết Trung Thu là cho tổ chức đêm ''Hội Long Trì", treo hàng ngàn chiếc đèn lồng, trông xa tựa hàng vạn ngôi sao sáng để vui chơi thỏa thích.
Chúa Trịnh Sâm còn gả con gái yêu cho em trai Đặng Thị Huệ là Đặng Mậu Lân, một tên du côn ỷ quyền thế chuyên cướp bóc, cưỡng hiếp phụ nữ giữa phố phường.
Đặng Thị Huệ còn liên kết với Huy quận công Hoàng Đình Bảo gạt bỏ Thế tử Trịnh Khải (con cả của Trịnh Sâm) lập Trịnh Cán (con của Thị Huệ) làm Thế tử mới 5 tuổi.
Tháng 9 năm Nhâm Dần (1782), Trịnh Sâm mất, thọ 44 tuổi, ở ngôi chúa 15 năm.
10. Điện Đô Vương (Trịnh Cán) (1782) (2 tháng):
Trịnh Sâm mất, Đặng Thị Huệ và Huy quận công Hoàng Đình Bảo lập Trịnh Cán lên ngôi chúa với tước hiệu Điện Đô Vương, lúc đó Cán mới 6 tuổi. Tuyên phi Đặng Thị Huệ nghiễm nhiên trở thành người điều khiển triều chính giúp con. Lòng người lo sợ, từ phủ chúa ra kinh thành, thôn dã, chắc hoạ loạn sắp xảy ra.
Tháng 10 năm Nhâm Dần (1782), Dự Vũ, tay chân của Trịnh Khải xúi kiêu binh (lính Tam phủ) nổi loạn, truất ngôi của Cán, giáng xuống Cung quốc công, giết chết Hoàng Đình Bảo, Đặng Thị Huệ bị truất xuống thứ dân, sau tự tử chết. Trịnh Cán bị đưa ra ở phủ Lượng Quốc, ốm chết, ở ngôi được gần hai tháng.
11. Đoan Nam Vương (Trịnh Khải) (1782-1786):
Trịnh Khải có tên khác là Trịnh Tông.
Lính Tam phủ nổi loạn, lật đổ Trịnh Cán đưa Trịnh Khải lên ngôi chúa, tiến phong là Đoan Nam Vương.
Tháng 6 nǎm Bính Ngọ (1786), đang lúc phủ chúa rối ren, khốn khổ vì nạn kiêu binh hoành hành khắp kinh kỳ, dân chúng ngày đêm nơm nớp lo sợ thì nghĩa quân Tây Sơn của Nguyễn Huệ với danh nghĩa "Phù Lê diệt Trịnh" kéo ra Bắc Hà.
Quân Trịnh chống cự yếu ớt, mau chóng tan rã, bỏ chạy. Tướng Hoàng Phùng Cơ, Nguyễn Lệ rút chạy lên phía Bắc, Trịnh Khải mặc nhung phục, cưỡi voi, cầm cờ lệnh chỉ huy, nhưng quân sĩ đã bỏ chạy hết, Trịnh Khải phải một mình bỏ chạy lên Sơn Tây.
Trịnh Khải bị Nguyễn Trang bắt giải về nộp cho quân Tây Sơn, trên đường giải về Trịnh Khải dùng dao tự tử.
Trịnh Khải làm chúa chưa được 4 nǎm thì chết, lúc đó mới 24 tuổi.
12. Án Đô Vương (Trịnh Bồng) (1786-1787):
Trịnh Bồng là con Trịnh Giang, bác ruột của Trịnh Khải, Trịnh Bồng đã được phong là Côn quận công. Khi Trịnh Khải bỏ trốn lên Sơn Tây, Trịnh Bồng lánh nạn ở huyện Vǎn Giang (Hưng Yên).
Khi Nguyễn Huệ và Vua Thái Đức Nguyễn Nhạc rút về Nam Hà, Trịnh Bồng đã về yết kiến vua Lê, được vua Lê phong cho làm Nguyên soái, Tổng quốc chính, Án Đô Vương.
Trịnh Bồng nhu nhược, lười biếng, không điều khiển công việc, do đó chính sự lại vào tay Đinh Tích Nhưỡng, chúng lấn át vua Lê, từ đó vua và chúa lại càng mâu thuẫn. Vua Lê đã vời Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệ An đem quân về giúp.
Trịnh Bồng trốn chạy về xã Dương Xá rồi Quế Võ (Bắc Ninh), Trịnh Bồng đi Hải Dương - Quảng Yên và Thái Bình mộ quân lương mưu đánh lại Nguyễn Hữu Chỉnh, nhưng đánh mấy trận đều thất bại.
Nǎm 1788, Trịnh Bồng sau nhiều lần thất bại, đã bỏ đi tu ở vùng Lạng Sơn, Cao Bằng.
Như vậy, họ Trịnh từ Thái Vương Trịnh Kiểm nắm quyền đến Án Đô Vương Trịnh Bồng (1545-1787) trải qua 12 đời chúa với 242 nǎm trị vì.
B. CÁC CHÚA NGUYỄN Ở ĐÀNG TRONG
1. Nguyễn Hoàng (Chúa Tiên) (1558-1613):
Nguyễn Kim tên húy là Cam, quê ở Gia Miêu, Tống Sơn, Hà Trung, Thanh Hóa, là con của Trừng Quốc Công Nguyễn Văn Lựu đã từng giúp Vua Lê Tương Dực khởi binh ở Thanh Hóa lật đổ Lê Uy Mục, nhân đó được phong là Thái phó Trừng Quốc Công.
Mạc Đǎng Dung cướp ngôi nhà Lê, Nguyễn Kim lánh sang Ai Lao, thu nạp hào kiệt, phò giúp nhà Lê Trung Hưng, được vua Lê Trang Tông phong là Thượng phụ Thái sư Hưng quốc công. Nǎm Canh Tý (l540) Nguyễn Kim đem quân về chiếm Nghệ An, nǎm l542 chiếm được Tây Đô (Thanh Hóa), nǎm Ất Tị (1545), Nguyễn Kim bị hàng tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đầu độc chết, thọ 75 tuổi, quyền hành rơi vào tay con rể là Trịnh Kiểm.
Khi Nguyễn Kim chạy sang Ai Lao thì Nguyễn Hoàng mới 2 tuổi, được Thái phó Nguyễn Ư Dĩ là cậu ruột nuôi dạy nên người.
Trịnh Kiểm là anh rể, muốn thâu tóm quyền hành nên đã ngấm ngầm ám hại các em vợ. Nguyễn Uông, con trưởng của Nguyễn Kim đã bị hãm hại. Nguyễn Hoàng rất lo sợ, đã sai người đến yết kiến Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm xin mách cho kế an toàn, Trạng Trình đã ứng khẩu câu thơ: ''Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân!'' (một dãy núi Hoành Sơn có thể dung thân muôn đời).
Nguyễn Hoàng nghĩ ra, đến nói với chị gái là Ngọc Bảo xin với anh rể là Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ Thuận Hoá là nơi hoang vu nhiều giặc dã, Trịnh Kiểm đồng ý cho Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hoá
Nǎm Mậu Ngọ (1558), Trịnh Kiểm tâu với Vua Lê Anh Tông cho Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hoá.
Được lệnh vào Nam, bất chấp mùa đông giá rét, Nguyễn Hoàng giong buồm đi ngay, những người họ hàng ở huyện Tống Sơn cùng quân lính ở đất Thanh - Nghệ nhiều người đưa cả vợ con đi theo có đến nghìn người. Các danh thần cùng đi có Nguyễn Ư Dĩ, Tống Phước Trị, Mạc Cảnh Huống...
Vào Nam, đoàn người của Nguyễn Hoàng đổ bộ lên cảng Cửa Việt, dựng dinh thự ở Ái Tử thuộc huyện Đǎng Xương, Quảng Trị.
Nguyễn Hoàng là người khôn ngoan, nhân hậu, lưu tâm đến dân tình, hết lòng thu dung hào kiệt, ông giảm sưu, hạ thuế khiến lòng người ai cũng mến phục. Nhân dân xưng tụng ông là Chúa Tiên.
Để tránh sự nghi kỵ của chúa Trịnh, nǎm 1569, ông ra chầu vua Lê ở An Trường, được Vua Lê, chúa Trịnh khen ngợi. Nǎm 1570, Nguyễn Hoàng được giao trấn thủ luôn đất Quảng Nam với ấn Tổng trấn, ông dời dinh vào làng Trà Bát (tức Cát Dinh) cũng thuộc huyện Đǎng Xương.
Nǎm 1572, tướng Lập Bạo của nhà Mạc, theo đường biển, đem quân vào đóng ở hai làng Hồ Xá và Lang Uyển (Quảng Trị) định phá sự nghiệp ở Thuận Hóa của Nguyễn Hoàng. Nguyễn Hoàng đã dùng kế mỹ nhân phá được kế hoạch của Lập Bạo và đánh tan được quân nhà Mạc.
Nǎm 1593, Nguyễn Hoàng đem quân ra Đông Đô giúp Trịnh Tùng đánh dẹp dư đảng họ Mạc. Vì lập được nhiều chiến công, ông được Vua Lê tấn phong làm Trung quân Đô đốc phủ tả đô đốc chưởng phủ sự Thái uý Đoan Quốc Công. Để tránh Trịnh Tùng hãm hại, nǎm Canh Tý (1600), Nguyễn Hoàng lấy cớ đem quân đi dẹp cuộc nổi loạn ở Nam Định, sau đó Nguyễn Hoàng cùng các tướng tâm phúc ra biển giong thẳng vào đất Thuận - Quảng, để con trai thứ 5 là Hải và cháu Hắc ở lại làm con tin. Vua Lê sai sứ giả vào phủ dụ và vẫn để Nguyễn Hoàng trấn thủ Thuận - Quảng.
Tháng 10 nǎm Canh Tý (1600), Nguyễn Hoàng gả con gái là Ngọc Tú cho Trịnh Tráng (con cả Trịnh Tùng). Có thể nói từ nǎm 1600, Nguyễn Hoàng bắt đầu xây dựng giang sơn riêng cho họ Nguyễn ở Đàng Trong.
Thuận - Quảng vốn là đất cũ của người Chiêm chịu ảnh hưởng vǎn hóa Chǎm-pa, Chúa Tiên đã dùng Phật giáo để thuần hoá nhân dân. Ông sửa sang và xây dựng nhiều ngôi chùa.
Đặc biệt, nǎm 1601 ông cho xây dựng chùa Thiên Mụ là công việc to lớn có giá trị nhất. Ngôi chùa lịch sử này có quan hệ mật thiết với quá trình phát triển đất Thuận Hoá và triều Nguyễn ở Việt Nam.
Nguyễn Hoàng sinh ngày 10 tháng 8 năm Ất Dậu (28-8-1525), mất ngày 3 tháng 6 năm Quý Sỉu (20-7-1613) thọ 89 tuổi, trấn thủ Thuận - Quảng 55 nǎm (1558-1613). Ông sinh 10 con trai và 2 con gái. Sau triều Nguyễn truy tôn là Thái tổ Gia Dụ Hoàng đế.
2. Nguyễn Phúc Nguyên (Chúa Sãi) (1613-1635):
Nguyễn Hoàng sắp mất, gọi con thứ 6 là Nguyễn Phúc Nguyên vào dặn dò: “Đất Thuận - Quảng này phía bắc thì có núi Hoành Sơn, sông Linh Giang, phía nam thì có núi Hải Vân và núi Bi Sơn thật là nơi trời để cho người anh hùng dụng võ. Vậy con phải thương yêu nhân dân, luyện tập binh sĩ mới gây dựng cơ nghiệp muôn đời”.
Nguyễn Phúc Nguyên khóc và bái tạ lãnh mạng. Vua Lê sai sứ giả vào viếng và truy tặng Nguyễn Hoàng là Cẩn Nghi công, vẫn cho Nguyễn Phúc Nguyên làm trấn thủ Thuận - Quảng với hàm Thái bảo, tước Thuỵ quận công. Nguyễn Phúc Nguyên xưng là Sãi vương và cho rời cung phủ về xã Phúc Yên, huyện Quảng Điền, ngày đêm lo việc chính sự, thu dụng nhân tài. Quan khám lý Trần Đức Hoà tiến cử Đào Duy Từ cho chúa Nguyễn, chúa mừng lắm phong cho Đào Duy Từ tước Lộc Kê hầu, chức Nha uý nội tán. Đào Duy Từ giúp chúa Nguyễn đắp luỹ Trường Dục, luỹ Thầy để phòng ngự, chống nhau với quân Trịnh, Đào Duy Từ còn bày kế sách cho chúa Nguyễn trả lại sắc phong của vua Lê, không chịu nộp thuế cống cho chúa Trịnh. Chuyện kể rằng nǎm Đinh Mão (1627), Trịnh Tráng sai sứ mang sắc Vua Lê dụ chúa Sãi cho con vào chầu và nộp 30 con voi cùng 30 chiếc thuyền để đưa cống nhà Minh.
Nhận được sắc Vua, chúa Sãi họp triều thần hỏi mưu kế. Đào Duy Từ dâng kế, cho người làm một cái mâm hai đáy, trên sắp đầy sản vật, giữa để sắc thư, rồi cử Lại Vǎn Khuông làm chánh sứ đem phẩm vật ra tạ ơn chúa Trịnh.
Nhờ đã được chuẩn bị trước, khi ra kinh đô yết kiến chúa Trịnh, Lại Vǎn Khuông ứng đối khá trôi chảy. Chúa hậu đãi, cho phép Khuông cùng phái đoàn đi thǎm kinh thành để chờ Chúa dạy bảo. Trên đường đi, Khuông lén mở cẩm nang của Đào Duy Từ trao cho từ trước. Sau khi đọc cẩm nang, Khuông cùng cả phái đoàn lẻn trốn về Nam. Thấy phái đoàn đột ngột trốn về, chúa Trịnh nghi hoặc, bèn cho người đập vỡ mâm mới thấy tờ sắc trước, và một bài thơ, mỗi câu bốn chữ như sau:
Mâu nhi địch
Mịch phi kiến tích
Ái lạc tâm trường
Lực lai tương địch
Cả triều thần không ai hiểu ý nghĩa. Trịnh Tráng phải mời một nhà nho uyên bác giải mã... Đọc xong nhà nho giải thích: “Đấy là lối chơi chữ của Đào Duy Từ, chữ mâu không có dấu phẩy là chữ dư; chữ mịch không thấy chữ kiến thì còn chữ bất; chữ ái rơi chữ tâm thành chữ thụ; chữ lực cùng đối địch với chữ lai thành chữ sắc. Vậy ý nghĩa của bài thơ 4 câu trên là “Dư bất thụ sắc” tức là “Ta không nhận sắc”.
Nghe xong, Trịnh Tráng vội cho người tìm bắt Lại Vǎn Khuông, nhưng Khuông đã cao chạy xa bay rồi. Tráng muốn phát binh vào đánh chúa Nguyễn, nhưng gặp lúc Cao Bằng và Hải Dương đều có giặc, đành phải hoãn lại chưa đi hỏi tội chúa Nguyễn.
Đào Duy Từ còn tiến cử cho chúa Nguyễn một viên tướng tài ba, mưu lược là Nguyễn Hữu Tiến, quân lực của Chúa Nguyễn từ đó ngày thêm mạnh. Đào Duy Từ chỉ giúp chúa Nguyễn 8 nǎm mà cơ nghiệp chúa Nguyễn thay đổi hẳn về chất, đất Đàng Trong trở nên có vǎn hiến và quy củ hơn trước nhiều.
Đối với lân bang, chúa Sãi chủ trương thân thiện với Chiêm Thành và Chân Lạp. Nǎm 1620, chúa gả công nữ Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp Chey - Chetta (1618-1686) để tạo thuận lợi cho dân chúng vào khai khẩn đất hoang ở thuỷ Chân Lạp. Nǎm 1631, chúa Sãi lại gả công nữ Ngọc Khoa cho vua Chiêm Pôrômê để củng cố nền hoà hiếu một thời gian khá dài giữa hai nước Chiêm - Việt.
Chúa Nguyễn Phúc Nguyên, sinh ngày 28 tháng 7 năm Quý Hợi (16-8-1563), mất ngày 10 tháng 10 năm Ất Hợi (19-11-1635), thọ 73 tuổi, ở ngôi Chúa 22 nǎm. Sau triều Nguyễn truy tôn là Hy Tông Hiếu Vǎn Hoàng đế, Chúa Sãi có 15 người con (11 con trai và 4 con gái).
3. Nguyễn Phúc Lan (Chúa Thượng) (1635-1648):
Nguyễn Phúc Nguyên có 11 con trai. Nguyễn Phúc Lan là con trai thứ hai được truyền ngôi chúa.
Năm Ất Hợi (1635) chúa Sãi mất, Nguyễn Phúc Lan lên ngôi chúa gọi là Chúa Thượng.
Nghe tin Phúc Lan nối nghiệp, hoàng tử thứ ba là Nguyễn Phúc Anh đang trấn giữ Quảng Nam âm mưu phản nghịch, liên kết với chúa Trịnh đem quân vào đánh miền Nam. Phúc Anh sai đắp luỹ Câu Ðê làm kế cố thủ. Phúc Lan đánh bắt được, không nỡ giết người ruột thịt, nhưng tướng sĩ và ông chú là Trường quận công Nguyễn Phúc Khê đều xin giết để trừ hậu hoạ.
Chúa dù đau xót cũng phải nghe theo.
Năm Kỷ Mão (1639), Tống Thị (vợ goá của Phúc Kỳ) dâng cho chúa chuỗi hoa vòng ngọc liên châu rất đẹp. Chúa cầm lên ngửi thấy mùi hương thơm ngát, xúc động lòng yêu. Tống Thị lại vào sụp lạy dưới thềm, thưa trình về tình cảnh goá bụa thảm thiết, nhan sắc lại cực kỳ diễm lệ. Chúa Thượng nổi tình riêng, sau đó mời nàng vào nội thất chung chăn gối.
Từ đó chúa rất mực sủng ái Tống Thị. Nàng trình bẩm việc gì Chúa cũng nghe theo. Tống Thị lựa lời khéo léo để Chúa vui lòng, nghĩ cách chiếm đoạt của cải của dân để làm giàu riêng. Các quan đại thần căm ghét Tống Thị, tìm cách can gián nhưng Chúa không nghe. Cho hay, nhan sắc, gái đẹp có mãnh lực vô biên, làm lung lạc cả đấng quân vương.
Làm chúa được 9 năm, vị chúa đa tình này lập được chiến công vang dội. Lần đầu tiên trong lịch sử thuỷ chiến, thuỷ quân Việt Nam đã đánh thắng thủy quân Âu châu.
Ðó là năm 1644, Hà Lan theo yêu cầu của Chúa Trịnh đã cho 3 chiếc tàu đồng kiểu tròn, trang bị nhiều trọng pháo tiến vào cửa Eo Thuận An mưu đồ xâm lược nước ta.
Chúa Thượng họp quần thần bàn định có nên đưa chiến thuyền của mình ra đánh tàu Hoà Lan hay không. Các quần thần không dám hứa là chắc thắng. Chúa hỏi một người Hoà Lan đang giúp việc cho chúa, người ấy tự phụ trả lời:
- Tầu Hoà Lan chỉ sợ mãnh lực và quân đội của trời thôi. Nghe vậy, chúa cảm thấy bị xúc phạm. Ông thân hành đến Eo, ra lệnh cho thuỷ quân chèo thuyền ra đánh thẳng vào 3 chiếc tàu của Hà Lan.
Hàng trăm chiến thuyền Việt Nam xông thẳng vào các tàu Hoà Lan, mặc đại bác bắn ra như mưa. Bốn mặt tàu Hoà Lan đều bị tấn công. Nhờ thuyền nhỏ cơ động, nhanh nhẹn nên mặc dù bị một số đạn, thuyền Việt Nam vẫn bao vây tấn công vào tàu Hoà Lan quyết liệt. Chúng vô cùng kinh hoàng, không ngờ thủy quân chúa Nguyễn lại gan dạ đến thế. Chiếc nhỏ nhất vội luồn lách chạy thoát thân. Chiếc thứ hai thảng thốt đâm vào đá, cả đoàn thuỷ thủ và tàu chìm nghỉm xuống biển. Chiếc thứ ba lớn nhất chống cự lại, các thuỷ quân chúa Nguyễn bám sát tàu bẻ bánh lái. Một số nhảy lên tàu, chặt gẫy cột buồm. Bị dồn vào thế tuyệt vọng, thuyền trưởng Hoà Lan cho nổ kho thuốc súng. Thế là tất cả thủy thủ bị hoả thiêu chết la liệt trên biển. Có 7 tên trên tàu nhảy xuống biển, cố bơi thoát nhưng đều bị tóm cổ.
Thắng trận trở về, Chúa Thượng dẫn 7 tên tù binh đến trước mặt người Hà Lan nói:
- Cần chi mãnh lực và quân đội của trời mới phá được. Chiến thuyền của ta cũng khá đấy chứ?
Năm 1648, Trịnh Tráng cho các đạo quân thuỷ bộ đánh vào miền Nam. Bộ binh đóng ở đất Nam Bố Chính; còn thuỷ quân thì đánh vào cửa Nhật Lệ. Nguyễn Phúc Lan phải tự cầm quân đánh lại. Sau Phúc Lan thấy người không được khoẻ, mới trao binh quyền cho con trai là Nguyễn Phúc Tần và tướng Nguyễn Hữu Dật chỉ huy còn mình thì rút về đến phá Tam Giang thì mất, thọ 48 tuổi, ở ngôi chúa 13 năm. Sau triều Nguyễn truy tôn là Thần Tông Hiếu Chiêu Hoàng đế.
Chúa Nguyễn Phúc Lan sinh ngày 16 tháng 7 năm Tân Sửu (13-8-1601), mất ngày 26 tháng 02 năm Mậu Tý (19-3-1648), thọ 48 tuổi. Chúa Nguyễn Phúc Lan có 4 người con (3 con trai, 1 con gái).
4. Nguyễn Phúc Tần (Chúa Hiền) (1648-1687):
Nguyễn Phúc Tần sinh năm Canh Thìn (1620). Lúc đầu được phong Phó tướng Dũng Lễ hầu, đã từng đánh giặc ở cửa biển, được chúa Phúc Lan rất khen ngợi. Năm Mậu Tý (1648) được tấn phong là Tiết chế chủ quân, thay Phúc Lan phá quân Trịnh ở sông Gianh, bấy giờ 29 tuổi. Chúa Nguyễn Phúc Lan mất đột ngột, bày tôi tôn Nguyễn Phúc Tần lên ngôi chúa, gọi là chúa Hiền. Chúa Nguyễn Phúc Tần là người chăm chỉ chính sự, không chuộng yến tiệc vui chơi.
Phúc Tần biết tận dụng hai tướng tài giỏi là Nguyễn Hữu Dật và Nguyễn Hữu Tiến. Quân Chúa Nguyễn nhiều lần vượt sông Gianh tiến ra đất Đàng Ngoài. Năm 1656, sau hai năm tấn công ta Bắc, quân Nguyễn đã chiếm được 7 huyện của Nghệ An. Tự thân Nguyễn Phúc Tần đã đem quân ra đến Nghệ An, đóng tại xã Vân Cát, quân Nguyễn có thể tiến sâu thêm nữa, nhưng nghe tin Trịnh Tráng mất, con là Trịnh Tạc lên ngôi chúa đang chịu tang, chúa Nguyễn cho người sang điếu, rồi rút quân về, lưu các tướng đóng đồn từ sông Lam trở về Nam, đắp luỹ từ núi đến cửa biển để phòng ngự. Sau đợt tấn công đó, quân Nguyễn còn chiếm đất Nghệ An thêm 5 lần nữa, năm 1660 chúa Trịnh mới khôi phục lại được. Từ đó Trịnh - Nguyễn cầm cự nhau suốt mấy chục năm không phân thắng bại.
Năm Kỷ Mùi (1679), chúa Nguyễn cho phép Dương Ngạn Địch, một tướng cũ của triều Minh cùng với Trần Thượng Xuyên… đem gia thuộc hơn 3000 người và hơn 50 chiến thuyền đến khai phá vùng đất Gia Định - Mỹ Tho. Từ đó phố xá, chợ búa mọc lên sầm uất, thuyền buôn của các nước Thanh, Nhật Bản và các nước phương Tây ra vào tấp nập, do đó phong hoá ngày càng mở mang.
Dưới thời Chúa Hiền, nhiều kênh dẫn nước tưới ruộng được khơi đào, như Trung Đàn, Mai Xá. Bấy giờ bờ cõi được thái bình, thóc lúa được mùa. Chúa càng chăm lo chính sự, không xây đền đài, không gần gái đẹp, bớt lao dịch thuế khoá, nhân dân đều khen ngợi thời thái bình thịnh trị.
Chúa Nguyễn Phúc Tần sinh ngày 19 tháng 6 năm Canh Thân (18-7-1620), mất ngày 19 tháng 3 năm Đinh Mão (30-4-1687), thọ 68 tuổi, ở ngôi chúa 39 năm. Sau triều Nguyễn truy tôn là Thái Tông Hiếu Triết Hoàng đế. Chúa Hiền có 9 người con (6 con trai, 3 con gái).
5. Nguyễn Phúc Thái (Chúa Nghĩa) (1687-1691):
Nguyễn Phúc Tần có 6 người con trai, Nguyễn Phúc Thái là con thứ hai của bà vợ thứ hai người họ Tống, nhưng lớn tuổi và hiền đức. Khi Nguyễn Phúc Tần mất, Thái đã 39 tuổi.
Nguyễn Phúc Thái nổi tiếng là người rộng rãi, hình phạt và phu thuế đã nhẹ, trăm họ ai cũng vui mừng, quan lại cũ của triều trước đều được trọng đãi.
Người đời sau nhắc đến Chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Thái là vì tháng 7 năm Đinh Mão (1687), đã cho dời phủ Chúa từ Kim Long về Phú Xuân, lấy Bằng Sơn (nay là Ngự Bình) làm bình phong, xây đắp cung điện, thành quách rất tráng lệ, vì Phú Xuân địa thế bằng phẳng, đẹp đẽ, rộng rãi, bề thế lại có sông Hương chảy ngang qua trước kinh thành và đã trở thành cố đô Huế ngày nay.
Chúa Nghĩa sinh ngày 21 tháng Chạp năm Kỷ Sửu (22-01-1650), sau 4 năm ở ngôi chúa, ngày 10 tháng Giêng năm Tân Mùi (07-02-1691), mất, thọ 43 tuổi. Sau triều Nguyễn truy tôn là Anh Tông Hiếu Nghĩa Hoàng đế. Chúa Nghĩa có 9 người con (5 con trai, 4 con gái).
6. Nguyễn Phúc Chu (Quốc Chúa) (1691-1725):
Nguyễn Phúc Chu là con cả Nguyễn Phúc Thái, sinh nǎm Ất Mão (11-6-1675), được nuôi cho ǎn học khá cẩn thận vì thế vǎn hay chữ tốt, đủ tài lược vǎn võ. Khi nối ngôi Chúa mới 17 tuổi.
Chúa Nguyễn Phúc Chu là chúa mộ đạo Phật. Nǎm 1710, chúa sai đúc chuông lớn nặng tới 3.285 cân, đặt ở chùa Thiên Mụ và xây dựng một loạt chùa miếu khác.
Chúa cho mở hội lớn ở chùa Thiên Mụ, chùa núi Mỹ Am. Tự chúa cũng ǎn chay ở vườn Côn Gia một tháng trời. Chúa phát tiền gạo cho người nghèo. Đây là thời kỳ mà chiến tranh Trịnh - Nguyễn đã tạm ngừng hơn 30 nǎm, đất nước bình yên. Chúa Nguyễn Phúc Chu có điều kiện mở mang đất đai về phía Nam và đạt được những thành tựu đáng kể: Năm Mậu Dần (1698), Chúa sai Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh đi kinh lược đất Chân Lạp. Đặt phủ Bình Thuận gồm đất Phan Rang, Phan Rí, chia làm hai huyện An Phúc và Hoà Đa, bắt đầu đặt phủ Gia Định; chia đất Đông Phố lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phúc Long, dựng dinh Trấn Biên (tức Biên Hoà) lấy xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình… dựng dinh Phiên Trấn, lập xã Minh Hương... Từ đó người Thanh đi lại buôn bán rất sầm uất.
Nǎm 1702, Công ty Ấn Độ của Anh do Ailen Catohpole, đem 200 quân đến chiếm đảo Côn Lôn. Chúa lập tức sai Chưởng dinh Trấn biên Trương Phúc Phan dùng mưu đánh đuổi ra khỏi đảo.
Nǎm 1708, Chúa dùng Mạc Cửu làm Tổng binh trấn Hà Tiên.
Nǎm 1709, Chúa cho đúc ấn Quốc Bửu "Đại Việt Quốc, Nguyễn Chúa Vĩnh Trấn chi bửu" ấn này về sau trở thành vật báu truyền ngôi.
Nǎm 1714, Chúa cho đại trùng tu chùa Thiên Mụ và đi thǎm phố Hội An. Nhân thấy cầu do người Nhật làm tụ tập nhiều thuyền buôn các nước, Chúa bèn đặt là Lai Viễn Kiều và ban biển chữ vàng ngày nay vẫn còn biển đó.
Chúa Nguyễn Phúc Chu sinh ngày 18 tháng 5 năm Ất Mão (11-6-1675), mất ngày 21 tháng 4 năm Ất Tỵ (01-6-1725), ở ngôi chúa 34 nǎm, thọ 51 tuổi. Sau triều Nguyễn truy tôn là Hiển Tông Hiếu Minh Hoàng đế. Chúa có 42 người con (38 con trai và 4 con gái).
7. Nguyễn Phúc Thụ (Ninh Vương) (1725-1738):
Nguyễn Phúc Thụ (nhiều sách viết là Chú) sinh ngày 22 tháng Chạp năm Bính Tý (14-1-1697), là con trai cả của Quốc Chúa, khi Quốc chúa mất được lên ngôi Chúa lúc đó đã 30 tuổi, xưng hiệu là Ninh Vương.
Nǎm Quý Sửu (1733), chúa cho đặt đồng hồ mua của Tây phương ở các dinh và các đồn tàu dọc biển. Sau đó người thợ thủ công là Nguyễn Vǎn Tú chế tạo được chiếc đồng hồ y hệt.
Nǎm Bính Thìn (1736), Mạc Cửu mất, con trai là Mạc Thiên Tứ được chúa cho làm Đô đốc trấn Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ là một nhà cai trị giỏi, mà lại vǎn thơ hay. Mạc Thiên Tứ mở Chiêu Anh Các để tụ họp các vǎn nhân thi sĩ cùng nhau xướng hoạ. Mạc Thiên Tứ để lại 10 bài thơ ca ngợi phong cảnh đẹp của Hà Tiên (Hà Tiên thập Vịnh).
Ngày 20 tháng 4 năm Mậu Ngọ (7-6-1738), Ninh Vương mất, thọ 42 tuổi, ở ngôi Chúa 13 nǎm. Sau triều Nguyễn truy tôn là Túc Tông Hiếu Ninh Hoàng đế. Ninh Vương có 9 người con (3con trai, 6 con gái).
8. Nguyễn Phúc Khoát (Võ Vương) (1738-1765):
Nguyễn Phúc Khoát, sinh ngày 18 tháng 8 nǎm Giáp Ngọ (26-9-1714), là con trưởng của Ninh Vương được lên ngôi Chúa tháng 5 năm Mậu ngọ (1738), lấy hiệu là Từ Tế đạo nhân.
Nǎm Giáp Tý (1744), Nguyễn Phúc Khoát lên ngôi vua, xưng là Võ Vương, cho đúc ấn Quốc Vương, xuống chiếu bố cáo thiên hạ, lấy Phú Xuân làm kinh đô.
Từ nǎm Giáp Tuất (1754), để xứng đáng với kinh đô của Nguyễn Vương, Phú Xuân được xây dựng thêm hàng loạt cung điện theo quy mô đế vương.
Đặc biệt chiếc áo dài Việt Nam tha thướt xinh đẹp như hiện nay, phải trải qua một quá trình phát triển, nó được hình thành từ đời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát.
Nǎm 1757, Võ Vương đặt Rạch Giá làm đạo Kiên Giang, Cà Mau làm đạo Long Xuyên.
Ngày 20 tháng 5 năm Ất Dậu (7-7-1765), Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát mất, thọ 52 tuổi, nối ngôi được 27 nǎm.
Sau triều Nguyễn truy tôn là Thế Tông Hiếu Vũ Hoàng đế. Võ Vương có 30 người con (18 con trai, 12 con gái).
9. Nguyễn Phúc Thuần (Định Vương) (1765-1777):
Nguyễn Phúc Thuần sinh ngày 18 tháng 11 năm Giáp Tuất (31-12-1754), là con thứ 16 của Nguyễn Phúc Khoát, mẹ là Nguyễn Phúc Ngọc Cầu.
Võ Vương lúc đầu lập con thứ 9 là Phúc Hiệu làm Thái tử, nhưng Hiệu mất sớm, con trai Hiệu là Hoàng tôn Phúc Dương còn thơ ấu mà Hoàng tử cả là Chương cũng đã mất. Hoàng tử thứ hai là Nguyễn Phúc Luân cũng rất khôi ngô tuấn tú, theo thứ tự sẽ phải lập Hoàng tôn Dương hoặc Phúc Luân lên ngôi vua nên đã trao Luân cho một thầy học nổi tiếng là Trương Vǎn Hạnh dạy bảo.
Nhưng khi Võ Vương mất, tình hình lại đảo ngược. Quyền thần Trương Phúc Loan không muốn lập Phúc Luân vì Luân đã lớn tuổi, khó bề lộng hành. Trương Phúc Loan lại chọn lập Nguyễn Phúc Thuần mới 12 tuổi lên ngôi vua.
Phúc Luân không được lập mà còn bị bắt giam. Trương Vǎn Hạnh cũng bị giết chết.
Nguyễn Phúc Thuần còn nhỏ tuổi, mọi quyền hành đều do Trương Phúc Loan sắp đặt. Loan tự phong là Quốc phó. Loan thâu tóm toàn bộ từ chính sự đến kinh tế. Các nguồn lợi chủ yếu của vương quốc Đàng Trong đều rơi vào tay Trương Phúc Loan và họ hàng của hắn.
Ngày nắng, Loan cho đem phơi của cải quý báu làm sáng rực cả góc trời. Có tiền, có quyền, Loan mặc sức hoành hành ngang ngược, người người ai ai cũng đều oán giận.
Nghĩa quân Tây Sơn do Nguyễn Nhạc cầm đầu ở Quy Nhơn được nhân dân đồng tình ủng hộ ngày càng lớn mạnh. Thêm vào đó, tháng 5 nǎm Giáp Ngọ (1774) Chúa Trịnh lại cho đại quân vào đánh Nguyễn. Cả nghĩa quân Tây Sơn lẫn quân Trịnh đều nêu khẩu hiệu : "Trừ khử quyền thần Trương Phúc Loan và tôn phò Hoàng tôn Dương". Chiến tranh loạn lạc lại nổ ra, đất Thuận Hoá trước trù phú là thế mà nay trǎm bề xơ xác tiêu điều, người chết đói đầy đường.
Trước tình cảnh đó, không có cách nào khác, tôn thất nhà Nguyễn cùng nhau lập tức bắt trói Trương Phúc Loan nộp cho quân Trịnh. Tháng 12 nǎm 1774, quân Trịnh chiếm được Phú Xuân và đặt quan cai trị Thuận Hoá. Trong số quan lại nhà Trịnh cử vào trấn thủ Thuận Hoá có Lê Quý Đôn (1776).
Nghĩa quân Tây Sơn tìm cách hoà hoãn với quân Trịnh để yên mặt Bắc và rảnh tay đánh Nguyễn ở phía Nam.
Đại quân Tây Sơn cả thuỷ lẫn bộ đánh vào Gia Định. Chúa Nguyễn Phúc Thuần chạy về Định Tường rồi lại chạy sang Long Xuyên. Tháng 9 nǎm Đinh Dậu (1777), quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ thống lĩnh đánh chiếm Long Xuyên, chúa Nguyễn bị chết trận.
Như vậy, Nguyễn Phúc Thuần ở ngôi chúa được 12 nǎm, thọ 24 tuổi không có con nối. Sau triều Nguyễn truy tôn là Duệ Tông Hiếu Định Hoàng đế. Định Vương Nguyễn Phúc Thuần chết, kết thúc giai đoạn lịch sử của 9 chúa Nguyễn Đàng Trong.
XXI. NHÀ TÂY SƠN (1778-1802)
24 NĂM, KINH ĐÔ PHÚ XUÂN (HUẾ)
1. Thái Đức Hoàng Đế (1778-1793):
Niên hiệu: Thái Đức (1778-1793)
Anh em Tây Sơn vốn người họ Hồ, hậu duệ của Trạng nguyên Hồ Hưng Dật (Thế kỷ X). Ông tổ của Tây Sơn ở huyện Hưng Nguyên, Nghệ An, khoảng nǎm (1653-1657) bị quân của Chúa Nguyễn đánh ra Đàng Ngoài, bắt đem về cho ở ấp Tây Sơn (nay là An Khê, Hoài Nhân, Bình Định), từ đó đổi thành họ Nguyễn.
Ông Nguyễn Phi Phúc lấy bà Nguyễn Thị Đồng sinh ba con trai: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ.
Gia đình ông Phúc làm nghề buôn trầu cau, cuộc sống cũng khá giả. Anh em Nguyễn Nhạc theo học giáo Hiến. Giáo Hiến vốn là môn khách của Trương Vǎn Hạnh, ngoại hữu dưới thời Chúa Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777).
Sau Trương Vǎn Hạnh bị Trương Phúc Loan giết, giáo Hiến sợ phải chạy vào ở ẩn tại Quy Nhơn, mở trường dạy học ở ấp Yên Thái.
Lúc đó, quyền thần Trương Phúc Loan tác oai tác quái, lấn lướt nhà Chúa, lòng người ai cũng cǎm ghét.
Hàng ngày anh em Tây Sơn được giáo Hiến dạy cả vǎn lẫn võ, đồng thời khích lệ bởi câu sấm:
"Tây khởi nghĩa, Bắc thu công".
Nǎm Tân Mão (1771), anh em Tây Sơn phất cờ khởi nghĩa với khẩu hiệu chiến lược: "Lật đổ quyền thần Trương Phúc Loan, phò Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương".
Quân Tây Sơn thường lấy của những nhà giàu rồi phân phát cho dân nghèo, do đó nhân dân các nơi theo về rất đông.
Trải qua 8 nǎm chiến đấu gian khổ, nǎm Mậu Tuất (1778), quân Tây Sơn đã diệt được chúa Nguyễn ở Đàng Trong.
- Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng dế lập nên Triều đại nhà Tây Sơn.
- Đặt niên hiệu là Thái Đức, phong cho Nguyễn Huệ là Long Nhương tướng quân.
Nǎm 1777, Chúa Nguyễn Phúc Thuần và Hoàng tôn Dương đều bị chết trong trận đánh ở Long Xuyên, chỉ còn Nguyễn Ánh chạy thoát ra đảo Thổ Chu, sau chạy sạng Xiêm ẩn náu. Nǎm 1784, Nguyễn Ánh cầu viện vua Xiêm đem quân đánh Tây Sơn, để cứu giúp mình. Cuối tháng 7 năm 1784, hai tướng Chiêu Tăng, Chiêu Sương được lệnh đem 2 vạn thuỷ quân, 300 chiến thuyền và tướng Chiêu Thuỳ Biên đem 3 vạn bộ binh cùng Nguyễn Ánh, Chu Văn Tiếp đánh về Gia Định. Cho đến cuối năm đó, gần một nửa đất Gia Định đã thuộc về quân Xiêm - Nguyễn Ánh. Tướng Tây Sơn là Trương Văn Đa giữ vững hai thành Gia Định và Mỹ Tho để chờ viện binh.
Kiêu căng với thắng lợi nhanh chóng của mình, quân Xiêm mặc sức cướp phá, đốt nhà cướp của, giết người rất dã man tàn bạo, gây bao tội ác với nhân dân ta.
Nguyễn Huệ được lệnh đem quân vào đánh quân Xiêm - Nguyễn Ánh. Đầu tháng 01 năm 1785, quân Nguyễn Huệ kéo vào đóng ở Mỹ Tho. Quân Xiêm - Nguyễn Ánh đóng ở Sa Đéc, chuẩn bị tấn công Mỹ Tho.
Trận quyết chiến đã diễn ra trên khúc sông Mỹ Tho từ Rạch Gầm đến Xoài Mút, sáng ngày 19-01-1785, Nguyễn Huệ nhử quân địch vào trận địa mai phục sẵn và đánh cho chúng tan tành, chỉ còn vài ngàn quân chạy bộ về nước.
Chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút thể hiện tài năng quân sự kiệt xuất của vị chủ soái Nguyễn Huệ và tinh thần chiến đấu anh dũng của nghĩa quân Tây Sơn.
Sau khi đánh tan 5 vạn quân Xiêm - Nguyễn Ánh. Nǎm 1786, Hoàng đế Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ đem quân ra hạ thành Thuận Hoá của Chúa Trịnh vào tháng 5 năm 1786. Trên đà thắng lợi đó, với khẩu hiệu "phù Lê diệt Trịnh", quân Tây Sơn tiến ra Bắc Hà theo hai đường thuỷ bộ. Quân Tây Sơn chiếm Vị Hoàng (Nam Định) rồi kéo quân ra Phố Hiến tiến về Thăng Long. Quân Trịnh do Hoàng Phùng Cơ và Trịnh Khải chỉ huy đều bị đánh tan. Trịnh Khải bỏ chạy lên Sơn Tây rồi bị bắt.
Ngày 21 tháng 7 năm 1786, Nguyễn Huệ kéo đại quân vào Thăng Long. Chính quyền của Chúa Trịnh bị lật đổ. Nguyễn Huệ trao lại quyền hành cho vua Lê Hiển Tông và được vua Lê phong tước Uy quốc công. Vua Lê cũng nhường đất Nghệ An cho Tây Sơn, gọi là để thưởng công.
Nghe tin Nguyễn Huệ chiếm được thành Thǎng Long, Nguyễn Nhạc sợ không kiềm chế được Nguyễn Huệ, đã vội thân hành đem quân bản bộ ra Bắc Hà.
Vua Lê Hiển Tông nghe tin, đem trǎm quân ra ngoài cõi đón Vua Tây Sơn. Nguyễn Huệ ra tận ngoại ô đón anh và tạ tội tự chuyên của mình.
Về đến kinh đô, Nguyễn Huệ đưa công chúa Ngọc Hân ra chào vua anh. Nguyễn Nhạc khen:
- Chà, em vua Tây Sơn làm rể vua nước Nam "môn đương hộ đối" mối nhân duyên thật đẹp!
Sau khi từ Bắc Hà trở về, tháng 4 nǎm Đinh Mùi (1787), Nguyễn Nhạc chia vùng đất phía Nam ra làm ba:
- Từ đèo Hải Vân trở ra Bắc thuộc về Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ.
- Đất Gia Định thuộc về Đông Định Vương Nguyễn Lữ.
- Nguyễn Nhạc đóng đô ở Qui Nhơn xưng là Trung ương Hoàng đế.
Nǎm 1793, Nguyễn Nhạc mất, làm vua được 15 nǎm.
2. Hoàng đế Quang Trung (1788-1792):
Niên hiệu: Quang Trung (1788-1792)
Hoàng đế Quang Trung tên huý là Nguyễn Huệ (tức Hồ Thơm), sinh nǎm Quý Dậu (1753). Nguyễn Huệ có nhiều đặc điểm: tóc quǎn, da sần, tiếng nói sang sảng như chuông, cặp mắt sáng như chớp, có thể nhìn rõ mọi vật trong đêm tối.
Nguyễn Huệ là trụ cột của nghĩa quân Tây Sơn, đã góp nhiều công lao to lớn, đập tan Chúa Nguyễn Đàng Trong, được vua Tây Sơn phong cho làm Long Nhương Tướng quân và được trao quyền cầm quân đánh Đông dẹp Bắc, là vị tướng hành quân chớp nhoáng, đánh đâu được đấy, bách chiến bách thắng.
Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc Hà lật nhào Chúa Trịnh chuyên quyền, tôn phò nhà Lê.
Sau khi vua Lê Hiển Tông tiếp kiến Nguyễn Huệ ở điện Vạn Thọ, vua Lê phong cho Nguyễn Huệ làm Nguyên Suý Dực chính phù vận Uy quốc công. Với sự sắp xếp khôn khéo của Nguyễn Hữu Chỉnh, vua Lê Hiển Tông đã gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ.
Tháng 7-1786, một đêm mưa to gió lớn. Kinh đô Thǎng Long ngập hàng thước nước, vua Lê Hiển Tông qua đời, thọ 70 tuổi.
Công chúa Ngọc Hân khi được chồng hỏi nên lập ai lên ngôi báu, đã nghiêng về Lê Duy Cận, nghe lời vợ, Nguyễn Huệ muốn hoãn lễ đǎng quang của Lê Duy Kỳ. Cả triều đình xao xuyến ngờ vực. Các tôn thất nhà Lê cho rằng Ngọc Hân cố tình làm lỡ việc lớn của triều đình và bảo sẽ từ mặt công chúa. Ngọc Hân sợ, vội nói với Nguyễn Huệ thu xếp cho Lê Duy Kỳ lên ngôi vua.
Ít lâu sau, Nguyễn Huệ đem công chúa Ngọc Hân cùng Nguyễn Nhạc rút về Nam.
Quân Tây Sơn rút về, Bắc Hà rối loạn. Nạn đói hoành hành, nhân dân cực khổ vô cùng, vua Lê Chiêu Thống bất lực trong việc chống chọi với chúa Trịnh Bồng nên đã dựa vào Nguyễn Hữu Chỉnh đánh bại quân của Trịnh, đốt phá phủ Chúa tan tành.
Nguyễn Hữu Chỉnh nhân đó lộng quyền, chống lại Tây Sơn, cho người vào đòi Nghệ An.
Nguyễn Huệ cử Ngô Văn Sở và Vũ Văn Nhậm đem quân ra diệt Nguyễn Hữu Chỉnh.
Trước sức tấn công mãnh liệt của quân Tây Sơn, Nguyễn Hữu Chỉnh và Lê Chiêu Thống bỏ chạy lên phía Bắc, Nguyễn Hữu Chỉnh chạy đến Bắc Giang thì bị bắt và bị giết, Lê Chiêu Thống trốn thoát chạy sang đất Quảng Tây.
Được thông báo về sự lộng quyền của Vũ Văn Nhậm, Nguyễn Huệ lại phải kéo quân ra Bắc Hà dẹp loạn, bắt giết Vũ Văn Nhậm rồi cử Ngô Văn Sở lên thay, đồng thời thu nhận một số quan lại, sĩ phu Bắc Hà như Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thế Lịch, Vũ Huy Tiến, … giao quyền hành, chức vụ cho họ, thể hiện đúng ý thức trọng dụng nhân tài.
Sau khi đã lập Sùng Nhượng công Lê Duy Cận làm Giám quốc, Nguyễn Huệ lại rút quân về Phú Xuân.
Cuối năm 1788, Lê Chiêu Thống đưa đường cho đội quân xâm lược Mãn Thanh vào chiếm đóng kinh đô Thăng Long.
Đại tư mã Ngô Văn Sở đã bàn với Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích và các mưu thần khác, chủ động rút quân về đóng ở Tam Điệp - Biện Sơn chờ lệnh.
Nghe tin cấp báo, ngay ngày hôm sau, 25 tháng 11 năm Mậu Thân (22-12-1788), Nguyễn Huệ xuất thân tiến ra Bắc Hà. Chiều ý các tướng và để sáng tỏ danh nghĩa với cả nước, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế niên hiêu Quang Trung.
Ngày 29 tháng 11 năm Mậu Thân (26-12-1788), đại binh của Hoàng đế Quang Trung tới Nghệ An, Quang Trung cho dừng quân tại đó hơn 10 ngày, tuyển thêm hàng vạn trai tráng Nghệ An vào nghĩa quân Tây Sơn, nâng quân số lên 10 vạn, với đội tượng binh 200 voi chiến. Nguyễn Huệ chia làm 5 đạo quân: tiền, hậu, tả, hữu, và trung quân. Những binh sĩ mới tuyển ở Nghệ An, chưa quen chiến trận, chưa được thao luyện được đặt vào đạo trung quân do chính Hoàng đế Quang Trung trực tiếp chỉ huy.
Hoàng đế Quang Trung còn tổ chức lễ duyệt binh ngay tại Nghệ An để khích lệ ý chí quyết chiến, quyết thắng của tướng sĩ đối với quân xâm lược Mãn Thanh.
Ngay sau lễ duyệt binh, Quang Trung cưỡi voi thúc quân tiến ra Bắc Hà. Ngày 20 tháng Chạp năm Mậu Thân (15-01-1789), đại quân của Quang Trung đã ra đến Tam Điệp (Ninh Bình).
Trước khi bước vào chiến dịch, vua Quang Trung đã nói với quan quân rằng:
- Nay ta tới đây, thân đốc việc binh, chiến thư ra sao đã có phương lược sẵn. Chỉ nội mười ngày nữa, thế nào cũng quét sạch giặc Thanh. Song ta nghĩ: Nước Thanh lớn hơn nước ta gấp mười lần, Thanh bị thua tất hổ thẹn, chắc phải tìm cách rửa hờn. Nếu cứ để binh lửa kéo dài mãi, thật không phải là phúc cho trǎm họ, lòng ta không nỡ! Nên chi, sau khi thắng, ta nên khéo đường từ lệnh thì mới dập tắt được ngọn lửa chiến tranh, việc từ lệnh đó ta giao cho Ngô Thì Nhậm.
Để mở cuộc tổng tiến công vào quân xâm lược Mãn Thanh, vua Quang Trung chia toàn quân làm 5 mũi tiến công.
- Đạo thứ nhất là đạo chủ lực do đích thân vua Quang Trung trực tiếp chỉ huy, có nhiệm vụ đánh thẳng vào các đồn lũy phía Nam Thăng Long.
- Đạo thứ hai do đô đốc Long chỉ huy, có nhiệm vụ đánh vào đồn Khương Thượng - Đống Đa rồi qua cửa Tây Nam thọc sâu vào Thăng Long.
- Đạo thứ ba do đô đốc Bảo chỉ huy, có nhiệm vụ tiến vào Đại Áng (Thường Tín - Hà Tây), chuẩn bị tham gia tiêu diệt đồn Ngọc Hồi.
- Đạo thứ tư do đô đốc Tuyết chỉ huy, có nhiệm vụ vượt biển lên đóng ở Hải Dương để uy hiếp mặt đông của giặc.
- Đạo thứ năm do đại đô đốc Lộc chỉ huy, có nhiệm vụ vượt biển vào sông Lục Đầu sẵn sàng đón đánh tiêu diệt tàn quân cuaả giặc.
Kế hoạch tấn công quân Thanh đã được phổ biến cho các tướng lĩnh chỉ huy. Vua Quang Trung cho mở tiệc khao quân, gọi là ăn tết trước, chờ "đến ngày mồng 7 tháng giêng vào Thăng Long sẽ làm lễ hạ cây nêu, mừng chiến thắng".
Sau lễ khao quân, các đạo quân gấp rút tiến quân ra mặt trận với khí thế quyết chiến, quyết thắng.
Các đồn tiền tiêu của địch như Gián Khẩu, Thanh Quyết, Nhật Tảo lần lượt bị hạ. Không một tên địch nào chạy thoát. Nửa đêm mồng 3 Tết, quân của vua Quang Trung bao vây đồn Hà Hồi (Thường Tín - Hà Tây) cách Thăng Long 20 cây số. Quân Tây Sơn bắc loa gọi hàng, hoảng hốt, bất ngờ khi nghe tiếng loa vọng như sấm dậy, lũ giặc bó tay xin hàng. Đồn Hà Hồi bị diệt gọn.
Ngày mồng 4 Tết, đang ăn uống vui vẻ thì Tôn Sĩ Nghị được tin "đồn Hà Hồi đã bị quân Tây Sơn đánh úp bắt hết rồi", Chúng hoảng sợ nói với nhau: "Thật là tướng ở trên trời xuống, quân ở dưới đất chui lên". Tôn Sĩ Viện lập tức tăng viện cho đồn Ngọc Hồi.
Ngày mồng 5 Tết Kỷ Dậu (30-01-1789) lúc trời còn chưa sáng, đội tượng binh của vua Quang Trung bất thần tiến nhanh về phía đồn Ngọc Hồi. Hứa Thế Hanh lập tức ra lệnh cho đội kỵ binh thiện chiến xông ra nghênh chiến, nhưng vừa thấy voi, đoàn ngựa chiến của địch hoảng loạn rút chạy. Địch bắn ra như mưa: đoàn voi chiến chia thành hai cánh tả, hữu mở đường cho đội xung kích tiến lên, 600 chiến sĩ cảm tử chia thành 20 toán, cứ 10 người, dao ngắn dắt bên hông, cùng nhau khiêng một tấm mộc lớn, bên ngoài quấn rơm ướt xông lên phía trước, phía sau có hai mươi chiến sĩ khác đi theo, kết thành những bức tường di động. Đại bác, cùng nỏ, hỏa mù của địch bắn ra tới tấp "khói tỏa mù trời" cũng không ngăn nổi bước tiến của đoàn quân cảm tử. Áp sát chân lũy, các chiến sĩ xung kích bỏ các tấm mộc xuống làm thang vượt hào lũy, rút dao và các loại vũ khí khác xông vào chiến đấu dữ dội. Cùng lúc đó, theo sự chỉ huy của Vua Quang Trung, hàng vạn quân ta ào ạt xông lên tiếp chiến, đại bác và hỏa nổ của quân ta bắn dữ dội vào địch. Trước sức tấn công như vũ bão của quân ta, địch chống cự không nổi, bỏ chạy toán loạn. Quân ta thừa thắng chém giết quân giặc, thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối. Hửa Thế Hanh, Thượng Duy Thăng cùng nhiều tên tướng khác bị tử trận. Đồn Ngọc Hồi bị hạ.
Hàng vạn quân Thanh tháo chạy về phía Thăng Long bị quân ta nghi binh nên dồn về làng Quỳnh Đô, định chạy qua cầu về Văn Điển rồi chạy về Thăng Long.
Theo kế hoạch, đạo quân của đô đốc Bảo đã mai phục sẵn ở mạn bắc Quỳnh Đô, đổ ra dồn địch vào khu Đầm Mực mà tiêu diệt.
Cùng lúc đó, theo kế hoạch đã định, đạo quân của đô đốc Long tiến công như vũ bão vào đồn Khương Thượng - Đống Đa. Bị tấn công bất ngờ, quân giặc hoảng loạn, chống đỡ yếu ớt. Hàng ngàn quân Thanh tử trận. Nhân dân 9 xã ngoại thành đã sôi nổi bện rơm thành hình rồng, đốt lên xông vào doanh trại giặc trợ chiến tạo thành vòng cung lửa bao vây đồn giặc. Tướng chỉ huy giặc là Sầm Nghi Đống tuyệt vọng đã thắt cổ chết tại Sở chỉ huy. Hàng trăm thân binh của hắn cũng tự sát theo. Thừa Thắng, đô đốc Long hô quân đánh thẳng vào trung tâm Thăng Long.
Vào canh tư sáng mồng 5 Tết, tiếng súng nổ liên hồi ở mạn Tây Nam đã làm Tôn Sĩ Nghị thức giấc. Được tin đồn Ngọc Hồi và đồn Đống Đa bị thất thủ, y hốt hoảng, nhảy lên "ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp" cùng một số tùy tùng chạy qua cầu phao, vượt sông Hồng lên mạn Bắc. Quân sỹ thấy chủ tướng đã bỏ chạy, bèn hùa nhau chạy theo, chen chúc, xô đẩy nhau vượt qua cầu, cầu gãy, hàng vạn quân Thanh rơi xuống nước chết, trôi theo dòng sông Nhị. Tàn quân của Tôn Sĩ Nghị chạy đến Phượng Nhãn thì bị đạo quân của đại đô đốc Lộc đổ ra đánh giết, phải chui lủi theo đường rừng chạy về nước, khi qua Tuyên Quang, chúng cũng bị các đội dân binh người Tày đón đánh tơi bời, phải vất vả lắm đám tàn quân này mới chạy được về đến Vân Nam.
Trưa mồng 5 Tết Kỷ Dậu (30-01-1789), Vua Quang Trung ngồi trên mình voi, áo bào sạm đen khói súng, dẫn đầu đạo quân tiến vào giải phóng Thăng Long giữa cảnh mừng vui khôi xiết của nhân dân.
Như vậy, đúng như dự kiến và lời hứa hẹn của vị Tổng chỉ huy, với tài dùng binh táo bạo, thần tốc, chưa đầy 5 ngày đêm, đội quân bách chiến bách thắng của Hoàng đế Quang Trung đã đánh tan 29 vạn quân Mãn Thanh, đập tan hoàn toàn mộng xâm chiếm nước ta của nhà Mãn Thanh, cũng như mưu đồ "Rước voi về giày mồ" của bè lũ Lê Chiêu Thống, giữ vững nền độc lập của dân tộc. Chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa và tên tuổi của người anh hùng áo vải Quang Trung mãi mãi sáng ngời trong lịch sử kháng chiến chống ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc anh hùng của dân tộc ta.
Sau chiến thắng Đống Đa, Nguyễn Huệ lại vội trở lại Phú Xuân để lo việc diệt Nguyễn Ánh, trao lại binh quyền cho Ngô Vǎn Sở và Ngô Thì Nhậm.
Theo phương lược ngoại giao đã được Quang Trung vạch sẵn, với tài ngoại giao khéo léo, Ngô Thì Nhậm đã bình thường được mối bang giao với nhà Thanh, buộc sứ Thanh phải vào tận Phú Xuân phong vương cho Nguyễn Huệ. Rồi Hoàng đế Quang Trung giả đã sang triều kiến và dự lễ mừng thọ 80 tuổi của vua Kiền Long nhà Thanh.
Nǎm 1792, sau khi gửi thư đến vua nhà Thanh xin được sánh duyên cùng một nàng công chúa Bắc quốc và xin hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây làm đất đóng đô. Vua Quang Trung đã sai Đô đốc Vũ Vǎn Dũng làm chánh sứ sang triều kiến vua Kiền Long. Vua Kiền Long đã chuẩn tấu gả công chúa khuê các sang đẹp duyên cùng Quốc vương nước Nam và tỉnh Quảng Tây được hứa sẽ nhường cho Quốc vương phò mã đóng đô.
Giữa lúc đoàn sứ bộ đang mừng vui vì sắp hoàn thành sứ mệnh được giao, thì được tin sét đánh: Vua Quang Trung đã từ trần. Mọi việc đều bị gác lại, Vũ Vǎn Dũng đành ôm hận trở về nước.
Nguyên do: Một buổi chiều đầu Thu nǎm 1792, vua Quang Trung đang ngồi làm việc, bỗng hoa mắt, tối sầm mặt mũi, mê man bất tỉnh. Người xưa gọi là chứng "huyễn vận", còn ngày nay y học gọi là tai biến mạch máu não. Khi tỉnh dậy, nhà vua cho triệu trấn thủ Nghệ An Trần Quang Diệu về triều bàn việc thiên đô ra Nghệ An. Nhưng việc chưa quyết xong thì bệnh tình nhà vua đã nguy kịch. Trước khi mất, nhà vua đã cǎn dặn Trần Quang Diệu và các quần thần:
"… Ta mở mang bờ cõi, khai thác đất đai, có cả cõi Nam này. Nay đau ốm, tất không khỏi được. Thái tử (Nguyễn Quang Toản) tư chất hơi cao, nhưng tuổi còn nhỏ. Ngoài thì có quân Gia Định (Nguyễn Ánh) là quốc thù, mà Thái Đức (Nguyễn Nhạc) thì tuổi già, ham dật lạc, cầu yên tạm bợ, không toan tính cái lo về sau. Khi ta chết rồi, nội trong một tháng phải chôn cất, việc tang làm lao thảo thôi. Lũ ngươi nên hợp sức mà giúp Thái tử sớm thiên đô về Vĩnh Đô (Vinh ngày nay) để khống chế thiên hạ. Bằng không quân Gia Định kéo đến thì các ngươi không có chỗ chôn đâu!".
Ngày 29 tháng 7 nǎm Nhâm Tý (1792) vào khoảng 11 giờ đêm, Quang Trung Nguyễn Huệ từ trần, ở ngôi được 4 nǎm, thọ 39 tuổi. Biết bao dự kiến to lớn của người anh hùng kiệt xuất của dân tộc chưa thực hiện được!
Nguyễn Quang Toản lên nối ngôi vua cha.
3. Hoàng đế Cảnh Thịnh (1793-1802):
Niên hiệu: - Cảnh Thịnh (1793-1801)
- Bảo Hưng (1801-1802)
Vua Quang Trung mất, Nguyễn Quang Toản là con trưởng mới 10 tuổi lên ngôi vua nǎm Quý Sửu (1793), lấy niên hiệu Cảnh Thịnh.
Quang Toản lên ngôi vua, dùng cậu là Bùi Đắc Tuyên làm Thái sư Giám quốc trông coi mọi việc trong ngoài. Vì Quang Toản còn nhỏ quá, Bùi Đắc Tuyên ngày càng chuyên quyền, trong ngoài đều oán. Đại thần trong triều ngoài trấn nghi kỵ lẫn nhau.
Bọn cận thần gièm pha, rằng Trần Quang Diệu oai quyền quá lớn, mưu đồ cướp ngôi, Quang Toản tin là thật, rút hết binh quyền của Trần Quang Diệu. Nội bộ các tướng lĩnh Tây Sơn lục đục nên thế lực ngày càng suy yếu.
Nǎm Canh Thân (1800), Nguyễn Ánh vượt biển ra đánh thành Quy Nhơn, tướng Tây Sơn là Vũ Tuấn đầu hàng.
Nǎm Tân Dậu (1801), Nguyễn Ánh đánh Phú Xuân, Quang Toản chống giữ không nổi, Phú Xuân bị chiếm, Quang Toản phải chạy ra Bắc Hà, đổi niên hiệu là Bảo Hưng.
Ngày 16 tháng 6 nǎm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Ánh tập trung lực lượng đánh chiếm kinh đô Thǎng Long, không chống đỡ nổi, Cảnh Thịnh cùng em là Quang Thuỳ bỏ thành chạy theo hướng Bắc, bị bọn thổ dân đất Kinh Bắc bắt được, đóng cũi đưa về Thǎng Long. Các tướng Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng cũng lần lượt bị bắt.
Mùa đông nǎm 1802, Nguyễn Ánh về Phú Xuân cáo tế miếu, trả thù Tây Sơn cực kỳ tàn bạo và hèn hạ. Quang Toản và toàn gia cũng như một số tướng lĩnh Tây Sơn bị hành hình...
Quang Toản lên ngôi vua nǎm 1793, đến nǎm 1802 thì bị giết ở tuổi 20, ở ngôi được 9 nǎm. Như vậy triều Tây Sơn kể từ vua Thái Đức đến hết Cảnh Thịnh tồn tại được 24 nǎm.
XXII. NHÀ NGUYỄN (1802-1945) 143 NĂM,
QUỐC HIỆU VIỆT NAM (TỪ MINH MẠNG) (1838)
LÀ ĐẠI NAM, KINH ĐÔ HUẾ (THỪA - THIÊN)
1. Thế Tổ (Nguyễn Phúc Ánh) (1802-1820):
Niên hiệu: Gia Long (1802 - 1820)
Nguyễn Phúc Ánh, sinh ngày 15 tháng 01 nǎm Nhâm Ngọ (08-02-1762), con thứ ba của Nguyễn Phúc Luân. Mẹ Nguyễn Phúc Ánh là Nguyễn Thị Hoàn, con gái Diễm Quốc Công Nguyễn Phúc Trung, người làng Minh Linh, phủ Thừa Thiên. Nǎm 1773, Tây Sơn khởi nghĩa, Nguyễn Phúc Ánh 12 tuổi, theo chúa Nguyễn Phúc Thuần vào Quảng Nam. Mùa Thu nǎm Đinh Dậu (1777) Nguyễn Phúc Thuần tử trận.
Nguyễn Phúc Ánh một mình chạy thoát ra đảo Thổ Chu, rồi sau chạy sang ẩn náu nhờ bên đất Xiêm.
Tháng 7 năm 1792, Vua Quang Trung bị bạo bệnh mất, con là Quang Toản còn ít tuổi, nội bộ lục đục, không sao chống nổi với sức tấn công của Nguyễn Ánh (có Pháp ngoại viện). Nǎm 1802, Nguyễn Ánh diệt xong nhà Tây Sơn lên ngôi Hoàng đế, niên hiệu là Gia Long đóng đô tại thành Phú Xuân (Huế) vào ngày 1 tháng 6 nǎm Nhâm Tuất (1802).
Gia Long phái một đoàn sứ thần do Lê Quang Định làm chánh sứ sang nhà Thanh xin phong vương và đổi tên nước là Nam Việt. Nhà Thanh cho rằng tên Nam Việt sẽ lẫn với nước của Triệu Đà (gồm cả Đông Việt và Tây Việt) nên đổi tên là Việt Nam.
Nǎm Giáp Tý (1804), Án sát Quảng Tây là Tề Bồ Sâm được vua Thanh phái sang phong Vương cho Gia Long và đặt tên nước là VIỆT NAM.
Năm 1811, Gia Long cho trở lại tên là Đại Việt.
Lần đầu Gia Long quản lý một nước Việt Nam thống nhất từ Bắc chí Nam, từ Lạng Sơn đến Hà Tiên, Gia Long chia cả nước làm 23 trấn, 4 doanh. Từ Ninh Bình trở ra gọi là Bắc thành gồm 11 trấn (5 nội trấn và 6 ngoại trấn); từ Bình Thuận trở vào gọi là Gia Định thành gồm 5 trấn; ở giữa là các trấn độc lập: Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Nghĩa, Bình Định, Phú Yên, Bình Hoà, Bình Thuận, đất kinh kỳ đặt 4 doanh: Trực Lệ Quảng Đức Doanh (tức Thừa Thiên), Quảng Trị doanh, Quảng Bình doanh, Quảng Nam doanh.
Để tránh lộng quyền, Gia Long không đặt chức Tể tướng, triều đình chỉ có 6 bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công do các Thượng thư đứng đầu có Tả hữu tham tri, Tả hữu thị lang giúp việc. Ở trong cung không lập ngôi Hoàng hậu, chỉ có Hoàng phi và các cung tần.
Nǎm 1815, bộ "Hoàng Việt luật lệ" gồm 22 quyển với 398 điều luật đã được ban hành.
Gia Long đã giết hại hai công thần bậc nhất của triều Nguyễn lúc đó là Nguyễn Vǎn Thành và Đặng Trần Thường.
Gia Long có hai vợ chính và nhiều vợ khác; có 13 hoàng tử và 18 công chúa.
Con cả là Chiêu chết sớm, con thứ là Hoàng tử Cảnh đã từng theo Bá Đa Lộc sang Pháp cầu viện, về nước được lập làm Thái tử, nǎm 1801 bị bệnh đậu mùa rồi mất.
Còn bà vợ thứ hai là Thuận Thiên Cao hoàng hậu họ Trần, người huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên, con gái Thọ Quốc Công Trần Hưng Đạt là Hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm được tấn phong là Hoàng Thái tử.
Ngày 19 tháng chạp nǎm Kỷ Mão (03-02-1820), Gia Long mất, thọ 59 tuổi, ở ngôi chúa 25 nǎm, ở ngôi vua 18 nǎm.
2. Thánh Tổ (Nguyễn Phúc Đảm) (1820-1840):
Niên hiệu: Minh Mệnh (1820-1840)
Minh Mệnh tên huý là Nguyễn Phúc Đảm còn tên nữa là Phúc Kiểu, sinh ngày 23 tháng 4 nǎm Tân Hợi (25-5-1791), là con thứ của Gia Long. Tháng giêng nǎm Canh Thìn (1820), thái tử Đảm lên ngôi vua, niên hiệu là Minh Mệnh.
Minh Mệnh có tư chất thông minh, hiếu học, nǎng động và quyết đoán. Minh Mệnh đặt ra lệ: các quan ở Thành, Dinh, Trấn vǎn từ Hiệp trấn, Cai bạ, Ký lục, Tham hiệp; võ từ Thống quản cơ đến Phó vệ uý... ai được thǎng điện, bổ nhiệm... đều phải đến kinh đô gặp Vua, để Vua hỏi han công việc, kiểm tra nǎng lực và khuyên bảo.
Là người tinh thâm nho học, sùng đạo Khổng, Mạnh, Minh Mệnh rất quan tâm đến học hành, khoa cử, tuyển chọn nhân tài. Nǎm 1821 cho dựng Quốc Tử Giám, đặt chức Tế Tửu và Tư nghiệp, mở lại thi Hội và thi Đình, trước 6 nǎm một khoa thi, nay rút xuống 3 nǎm.
Minh Mệnh cho lập Quốc sử quán để biên soạn lịch sử dân tộc qua các triều đại.
Dưới triều Minh Mệnh, nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra ở nhiều nơi như: Nông dân nghèo khổ nổi lên chống các quan lại nhũng nhiễu, hà khắc do Phan Bá Vành khởi xướng ở Bắc Bộ. Lê Duy Lương (cựu thần nhà Lê) nổi lên chống lại triều đình Huế. Nông Văn Vân (người thiểu số) nổi lên ở Hòa Bình, Thanh Hóa,… Minh Mệnh phải cử các tướng Trương Minh Giảng, Tạ Quang Cự, Nguyễn Công Trứ đem quân đi đánh dẹp.
Năm Quý Tỵ (1833), Lê Văn Khôi (con nuôi Lê Văn Duyệt) khởi binh ở Gia Định chống lại triều đình. Lê Văn Khôi sai người sang Xiêm cầu cứu, người Xiêm đã cử 5 đạo quân thủy bộ sang giúp Lê Văn Khôi đánh nhà Nguyễn.
Các tướng Trương Minh Giảng, Nguyễn Xuân, đã đại phá quân Xiêm đuổi ra khỏi bờ cõi. Không dừng ở đó, năm Ất Mùi (1835), nhà Nguyễn còn cho quân tiến sang Nam Vang đưa vua Chân Lạp là Nặc Ông Chân về nước.
Các tướng Trương Minh Giảng, Nguyễn Xuân từ Nam Vang tiến lên đánh quân Xiêm liền mấy trận, chém tướng bắt quân, thu được súng ống, khí giới nhiều không kể hết. Tướng Xiêm là Phi Nhã Chất Tri đem đại binh chạy về nước, quan quân đuổi đánh lấy lại thành Phu Túc (Pursat) giao cho người Chân Lạp ở lại giữ các nơi!.
Các tướng Nguyễn Văn Xuân, Phạm Văn Điển và Lê Văn Thụy cũng đánh tan liên quân Xiêm - Lào ở mặt trận Quảng Trị, Nghệ An và Trấn Ninh giữ vững được bờ cõi.
Minh Mệnh cũng rất quan tâm đến võ bị, nhất là thủy quân, nên đã sai người tìm hiểu cách đóng tầu của Châu Âu và ước vọng làm cho người Việt ta đóng được tầu kiểu Tây Âu và biết lái tàu vượt đại dương.
Năm 1831-1832, Minh Mệnh cải cách hành chính đã bỏ hai tổng trấn chia cả nước thành 30 tỉnh và phủ Thừa Thiên (trực thuộc trung ương).
Các trấn phía Bắc thành 18 tỉnh: Quảng Bình, Quảng Trị, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa, Ninh Bình, Nam Định, Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Quảng Yên, Sơn Tây, Bắc Ninh, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng.
Các dinh trấn phía Nam thành 12 tỉnh: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú yên, Khánh Hòa, Bình Thuận, Phiên An, Biên Hòa, An Giang, Vĩnh Long, Định Tường, Hà Tiên.
Minh Mệnh đã cho hoàn chỉnh hệ thống đê điều ở Bắc Bộ, đặt quan khuyến nông, khai trương ven biển Bắc Bộ lập thêm hai huyện Kim Sơn và Tiền Hải.
Về đối ngoại, Minh Mệnh đặc biệt chú ý thần phục nhà Thanh, nhưng lại lạnh nhạt và nghi kỵ đối với các nước phương Tây, do vậy đã kìm hãm sự phát triển của đất nước.
Năm 1838, Minh Mệnh đổi tên nước là Đại Nam.
Để bảo đảm đế nghiệp lâu dài cho mình và các con cháu, Minh Mệnh đã thảo ra 11 bài thơ, trong đó một bài "Đế hệ thi" và 10 bài "Phiên hệ thi", mỗi bài 4 câu, 20 từ, từ có nghĩa tốt, uyên bác dùng làm tiền từ cho 20 đời nối tiếp nhau kể từ Minh Mệnh.
Bài thơ: "Đế hệ thi" có 4 câu, 20 từ:
Miên, Hồng, Ưng, Bửu ,Vĩnh,
Bảo, Quý, Định, Long, Trường,
Hiền, Nǎng, Kham, Kế, Thuật,
Thế, Thụy, Quốc, Gia, Xương.
Theo phép đặt tên đôi này, tất cả con trai của Minh Mệnh đều phải có tiền từ "Miên" ghép với tên của gia đình đặt, tiếp đến con của thế hệ "Miên" là "Hồng"... Cứ thế liên tiếp 20 từ là 20 thế hệ, Minh Mệnh hy vọng đế nghiệp sẽ truyền lại cho 20 đời con cháu khoảng 500 nǎm. Nhưng triều Nguyễn chỉ thực hiện được đến từ thứ 5 "Vĩnh Thuỵ" (tức Bảo Đại thì bị Cách mạng tháng 8 nǎm 1945 lật đổ).
Minh Mệnh có rất nhiều vợ nên đã có 78 hoàng tử và 64 công chúa, tổng cộng 142 người con.
Tháng 12 nǎm 1840, Minh Mệnh ốm nặng rồi mất vào ngày 28 tháng 12 năm Canh Tý (20-01-1841), trị vì được 20 nǎm, thọ 51 tuổi.
3. Hiến Tổ (Miên Tông) (1841-1847)
Niên hiệu: Thiệu Trị (1841-1847)
Thiệu Trị tên huý là Phúc Tuyền sau đổi là Miên Tông, là con trưởng của Minh Mệnh và mẹ là Thuận Đức Thần Phi Hồ Thị Hoa, sinh ngày 11 tháng 5 năm Đinh Mão (16-06-1807).
Ngày 20 tháng Giêng nǎm Tân Sửu (11-02-1841) Miên Tông lên ngôi vua đặt niên hiệu là Thiệu Trị, lúc đó đã 34 tuổi. Thiệu Trị lên ngôi vua cứ theo quy chế được sắp đặt từ thời Minh Mệnh mà làm theo di huấn của cha.
Thiệu Trị đã đắp đê, đập chặn ngang cửa sông Cửu An.
Về đối ngoại, Thiệu Trị dàn xếp mối bang giao với Chân Lạp.
Về quan hệ với phương Tây, một số giáo sĩ bị bắt giam từ trước tại Huế, bị kết án tử hình, nay Thiệu Trị cho được tự do nhờ sự can thiệp của hải quân Pháp. Nǎm 1847, Pháp sai một đại tá, một trung tá đem hai chiến thuyền vào Đà Nẵng xin bỏ chỉ dụ cấm đạo và cho tự do tín ngưỡng. Hai bên đang thương lượng thì Pháp dùng đại bác bắn đắm thuyền của Việt Nam đỗ bên cạnh rồi chạy ra biển.
Thiệu Trị vô cùng tức giận, lại ban thêm sắc dụ cấm người ngoại quốc giảng đạo và trị tội người trong nước đi đạo.
Ngày 27 tháng 9 nǎm Đinh Mùi (04-10-1847), Thiệu Trị bị bệnh rồi mất, ở ngôi được 6 nǎm, thọ 41 tuổi.
Thiệu Trị có 29 hoàng tử, 35 công chúa, tổng cộng 64 người con.
4. Dục Tông (Hồng Nhậm) (1847-1883)
Niên hiệu: Tự Đức (1847-1883)
Tự Đức tên huý là Nguyễn Phúc Thì sau đổi là Hồng Nhậm, sinh ngày 25 tháng 8 nǎm Kỷ Sửu (22-9-1829) là con thứ hai của Thiệu Trị và bà Phạm Thị Hằng, con gái Thượng thư Bộ Lễ Phạm Đǎng Hưng.
Tháng 10 nǎm Đinh Mùi (1847), Hồng Nhậm lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Tự Đức, lúc đó 19 tuổi.
Tự Đức ốm yếu nên ít đi kinh lý, do đó ít sát dân tình, ngày càng trở nên quan liêu. Bù lại sức khỏe yếu, Tự Đức lại rất thông minh và có tài vǎn học, thích nghiền ngẫm kinh điển Nho giáo, xem sách đến khuya. Tự Đức là một trong những người uyên bác về Nho học và Khổng học thời đó.
Tự Đức là người con rất có hiếu, mẹ là bà Từ Dụ. Tự Đức quy định ngày lẻ thì thiết triều, ngày chẵn vào chầu thǎm mẹ, mỗi tháng 15 ngày thiết triều, 15 ngày vào hầu mẹ, khi vào hầu thì sửa mình, nén hơi, quỳ xuống hỏi thǎm sức khoẻ, rồi cùng mẹ luận bàn kinh sách và sự tích xưa nay, nhất là chính sự. Bà Từ Dụ là người thuộc nhiều sử sách mà biết việc đời cũng rộng. Hễ mẹ nói câu gì hay, Vua ghi ngay vào cuốn sổ nhỏ gọi là "Từ huấn lục".
Tự Đức thiếu tính quyết đoán, thường dựa vào triều thần, bàn việc triều thần thì rất bảo thủ, do đó khi trên thế giới, khoa học và công nghiệp đã phát triển mạnh mẽ, các cường quốc đang cạnh tranh buôn bán ngày càng gay gắt, thì vua tôi chỉ lo việc nghiên bút, bàn đến Nghiêu, Thuấn, Hạ, Thương, Chu xa xưa làm tấm gương, nên Tự Đức "bế quan toả cảng" cấm buôn bán gay gắt.
Khi thành Gia Định (Sài Gòn) rơi vào tay Pháp, thì triều đình bó tay không có kế gì hay.
Nhiều người có con mắt nhìn xa thấy rộng như Phạm Phú Thứ (1864), Nguyễn Trường Tộ (1866), Đinh Vǎn Điền (1868), Nguyễn Hiệp (1867), Lê Đĩnh (1881)... dâng sớ điều trần xin nhà vua cải cách mọi mặt: chính trị, kinh tế, quân sự... theo gương Nhật Bản, Thái Lan, Hương Cảng... và các nước phương Tây thì phái bảo thủ trong triều đình cho là nói nhảm, nên Tự Đức cũng không chấp nhận.
Ngày 31-8-1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha đã kéo chiến hạm đến dàn trận tại cửa biển Đà Nẵng. Sáng ngày 01-9-1858, chúng cho tầu chiến bắn đại bác lên gác đồn Điện Hải, An Hải, sau đó chúng cho quân đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà mở đầu cuộc xâm lược nước ta.
Đầu năm Tân Dậu (1861) giặc Pháp đánh chiếm thành Gia Định (Sài Gòn).
Bọn thực dân Pháp đã dùng sức ép quân sự buộc triều đình nhà Nguyễn đầu hàng với hiệp ước năm Nhâm Tuất (1862), triều đình Huế cắt nhượng ba tỉnh miền Đông Nam Bộ (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa) và các đảo Côn Lôn cho Pháp tiếp sau đó năm 1867 triều đình Huế lại nhường nốt ba tỉnh miền Tây Nam Bộ (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên) cho Pháp, tức là toàn bộ Nam Kỳ trở thành nhượng địa của Pháp. Giặc Pháp dùng Nam Bộ làm bàn đạp để thôn tính toàn bộ nước ta.
Trong khi triều đình Huế ươn hèn, liên tiếp đầu hàng giặc Pháp thì toàn dân Việt Nam, từ dân chúng đến các tầng lớp Sĩ phu, kể cả phần đông quan lại trước họa xâm lăng đều tỏ thái độ và quyết tâm kháng chiến chống thực dân Pháp, không nề hy sinh tính mạng, đó là ý chí sắt đá và truyền thống chông xâm lược của dân tộc ta.
Trong khi đó, một bộ phận quan lại chóp bu của triều đình Huế, từ đầu họ dè dặt chủ trương cầu hòa, do đó thực dân Pháp càng lấn tới ép triều đình Huế phải đầu hàng.
Do triều đình ươn hèn như vậy nên phải ký hoà ước Quý Mùi (1883), rồi hoà ước Pa-tơ-nốt (1884), đất nước ta bị chia làm 3 kỳ (Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ) chịu sự bảo hộ của đế quốc Pháp.
Ngày 16 tháng 6 nǎm Quý Mùi (19-7-1883), Tự Đức mất, trị vì được 35 nǎm, thọ 55 tuổi.